Về vấn đề trên, Luật sư Phạm Thanh Bình, Giám đốc Công ty
Luật Bảo Ngọc, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội tư vấn như sau:
Bạn không nói rõ cha bạn đã thừa nhận bạn là con đẻ của ông bị
thất lạc từ nhỏ hay chưa nên có thể chia thành hai trường hợp như sau:
- Trường hợp thứ nhất,
nếu trước khi cha bạn qua đời, cha con bạn đã tìm gặp được nhau và cha bạn thừa
nhận bạn đúng là đứa con đẻ ông bị thất lạc từ nhỏ thì không cần phải làm thủ
tục nhận cha bạn vẫn được hưởng di sản của ông để lại theo nội dung di chúc.
Trong trường hợp này có thể xảy ra một trong hai khả năng:
+ Cha bạn lập di chúc
để lại cho bạn một phần tài sản: Bạn sẽ được hưởng một phần tài sản của cha bạn
để lại (được ghi trong di chúc).
+ Cha bạn chết mà không
để lại di chúc hoặc tuy có lập di chúc nhưng di chúc không hợp pháp: Khi đó, di
sản sẽ được phân chia theo pháp luật. Cụ thể:
Khoản 1 Điều 676 Bộ
luật Dân sự 2005 quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Theo đó, nếu bạn đã
được cha bạn thừa nhận là con đẻ của ông và không có tranh chấp với những người
cùng hàng thừa kế với bạn (ở đây là những người con cùng cha khác mẹ với bạn)
bạn sẽ được hưởng một phần tài sản của cha bạn để lại (những người thừa kế cùng
hàng được hưởng phần thừa kế bằng nhau).
- Trường hợp thứ hai,
theo quy định tại khoản 1 Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về
quyền nhận cha, mẹ: “Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp
cha, mẹ đã chết”. Do đó, nếu trước khi cha bạn qua đời nhưng chưa kịp thừa nhận
bạn đúng là con đẻ ông bị thất lạc từ nhỏ thì bạn cần phải đến UBND cấp xã nơi
cư trú của bạn hoặc cha bạn để thực hiện việc đăng ký nhận cha trước khi làm
thủ tục hưởng thừa kế.
Thủ tục đăng ký nhận
cha
Điều 25 Luật hộ tịch
quy định thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con như sau:
“1. Người yêu cầu đăng
ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan
hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ,
con các bên phải có mặt.
2. Trong thời hạn 3
ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này,
nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư
pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào
Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người
yêu cầu.
Trường hợp cần phải xác
minh, thời hạn được kéo dài thêm không quá 5 ngày làm việc”.
Theo Điều 15 thông tư
15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015, chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con bao
gồm:
“1. Văn bản của cơ quan
y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước
ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có
văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa,
đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn
bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất
hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.
Cơ quan đăng ký hộ tịch
có trách nhiệm giải thích rõ trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan, làm
chứng không đúng sự thật.
Cơ quan đăng ký hộ tịch
từ chối giải quyết theo quy định tại Điều 5 của Thông tư này hoặc hủy bỏ kết
quả đăng ký hộ tịch, nếu có cơ sở xác định nội dung cam đoan, làm chứng không
đúng sự thật”.
./.
|