GS. Hamilton: “Hoàn cảnh gia đình là nguyên nhân sâu xa của hành vi của trẻ em, người chưa thành niên”.
Vẫn không có biện pháp giáo dục đặc thù với từng đối tượng
Tương tự Pháp lệnh XLVPHC, trình tự, thủ
tục lập hồ sơ, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn cũng có 3 giai đoạn với việc bổ sung các quy định bảo đảm quy
trình thực hiện minh bạch, dân chủ hơn cũng như bảo đảm cho người bị xem
xét, áp dụng biện pháp XLHC và đại diện hợp pháp của họ có cơ hội được
giải thích, biện hộ, bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Có điều, trong khi đối tượng áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn rất đa dạng thì Luật năm
2012 vẫn quy định theo hướng của Pháp lệnh năm 2002 và các văn bản liên
quan là không quy định các biện pháp giáo dục đối với từng loại đối
tượng. Theo Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Mạnh Cường, việc
không có các biện pháp giáo dục đặc thù với các đối tượng được giáo dục
ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng biện pháp này.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc
hội Nguyễn Công Hồng cũng cho rằng Luật còn “bỏ ngỏ” một số vấn đề.
Chẳng hạn, quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật XLVPHC “nếu đối tượng không
có nơi cư trú ổn định thì giao cho cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp
trẻ em để quản lý giáo dục” được hiểu là việc này sẽ được thực hiện sau
khi có quyết định áp dụng biện pháp giáo dục.
“Vậy trong quá trình chờ quyết định, các
đối tượng sẽ ở đâu; ai có thẩm quyền quyết định và quyết định mang tính
pháp lý ra sao…”, ông Hồng đặt ra hàng loạt câu hỏi và kiến nghị văn
bản hướng dẫn tới đây phải quy định cụ thể nếu không sẽ không thể áp
dụng được.
Nhiều khi hoàn cảnh gia đình là nguyên nhân sâu xa
Theo các chuyên gia, Luật XLVPHC chuyển
thẩm quyền quyết định áp dụng 3 biện pháp XLHC (đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc) từ cơ quan hành chính sang TAND thực sự là nội dung thay đổi rất
lớn, thể hiện xu hướng tiến bộ, dân chủ.
Tuy nhiên, Điều 92 Luật XLVPHC liệt kê
hàng loạt các trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
trong đó đề cập nhiều đến yếu tố lỗi. Cụ thể là, người từ đủ 12 tuổi
đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự; người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất
nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật Hình sự; người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm
trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Về vấn đề này, đại diện UNICEF – bà
Nguyễn Thanh Trúc rất băn khoăn bởi việc chứng minh yếu tố lỗi của những
em này là rất khó khăn, đòi hỏi phải được hướng dẫn thật cụ thể.
Chia sẻ băn khoăn của bà Trúc, GS.
Carolyn Hamilton nhấn mạnh, điều quan trọng trong áp dụng các biện pháp
XLHC đối với NCTN là đảm bảo công bằng, công khai và nếu phải áp dụng
biện pháp cuối cùng là “giam giữ” thì cần làm sao để NCTN tái hòa nhập
cộng đồng một cách tốt nhất. Đồng tình với đề xuất của bà Trúc, GS.
Hamilton cũng kiến nghị Việt Nam cần có văn bản quy định hướng dẫn chi
tiết việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với NCTN, trẻ em và các thủ tục ấy
sẽ giúp đỡ các đối tượng ra sao, ở mức độ nào khi mà “hành vi của trẻ
em, NCTN thường xuất phát từ nguyên nhân sâu xa là hoàn cảnh gia đình”.