Chưa yêu cầu thì không
nên bắt buộc người được thi hành án phải thực hiện
Có
ý kiến cho rằng, nên bỏ quy định công dân phải có đơn yêu cầu mới được thi hành
án (THA). Quan điểm của ông thế nào?
- Điều 106 Hiến pháp
2013 quy định: “Bản án, quyết định của TAND phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt,
cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong
việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm (Điều 4 Bộ luật Dân
sự 2005).
Trên cơ sở nguyên tắc
này, việc tự nguyện, thoả thuận giữa các đương sự trong thi hành án dân sự
(THADS) được công nhận (Điều 6 Luật THADS). Mặt khác, một trong các quyền cơ
bản của công dân được Hiến pháp 2013 công nhận là “mọi người có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của người khác”. Bản án, quyết định của Tòa án công nhận quyền, lợi
ích và nghĩa vụ của đương sự thì quyền yêu cầu thi hành quyền, lợi ích và nghĩa
vụ đó của đương sự phải được tôn trọng.
Vì vậy, có thể nói quyền
yêu cầu THA cũng là một quyền cơ bản của công dân, khi người được THA chưa hoặc
không yêu cầu THA thì không nên bắt buộc họ phải thực hiện quyền yêu cầu THA.
Trường hợp người phải
THA không tự nguyện THA, nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định hoặc các bên
đương sự không tự thỏa thuận được việc THA hoặc người phải THA không thực hiện
đúng thỏa thuận, thì người được THA có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS
có trách nhiệm tổ chức thi hành, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân.
Về thực tiễn, có nhiều
trường hợp sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, người
được THA chưa yêu cầu THA ngay hoặc chỉ yêu cầu người phải THA thi hành một
phần nghĩa vụ THA, thậm chí có trường hợp họ không yêu cầu cơ quan THADS
thi hành do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau về cách thức thi hành
bản án, quyết định của Tòa án hoặc họ thỏa mãn với phán quyết của Tòa án rằng
họ đã đúng nên họ không nhất thiết đòi hỏi phải thực hiện phán quyết của Tòa
án. Do đó, để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong THADS thì quy
định người được THA phải làm đơn yêu cầu THA là phù hợp.
Còn xét ở góc độ chuyên
môn, nghiệp vụ THADS , nếu quy định tất cả các trường hợp cơ quan THADS (hay
Tòa án) phải chủ động ra quyết định THA thì ngay sau khi nhận được bản án,
quyết định, cơ quan có thẩm quyền phải thụ lý và ra quyết định đối với tất cả
các khoản phải thi hành cho tất cả những người được THA.
Điều này sẽ dẫn tới tình
trạng quá tải về cơ học, nhất là đối với các cơ quan THADS tại các đô thị, các
địa phương có số lượng án lớn. Việc quá tải về công việc sẽ dẫn đến hệ quả là
các cơ quan THADS không thể tổ chức thi hành kịp thời, đạt chất lượng đối
với tất cả các vụ việc đã ra quyết định THA, không đúng với quan điểm sửa luật
là giảm cơ bản án tồn đọng và không bảo đảm kết quả công tác THADS thực
chất, bền vững.
Bên cạnh đó, việc bỏ quy
định về đơn yêu cầu THA là sẽ làm thay đổi rất cơ bản của Luật THADS, có liên
quan đến nhiều nội dung quy định về thủ tục THADS nên sẽ phải sửa đổi, bổ
sung nhiều điều khoản trong Luật này, không phù hợp với phạm vi sửa đổi, bổ
sung một số điều của Dự án Luật.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu
và tham khảo quy định pháp luật về THADS của nhiều nước trên thế giới cũng cho
thấy, việc THADS chủ yếu dựa trên yêu cầu của người được THA, thậm chí họ
còn phải tạm ứng trước chi phí THA.
Ngoài ra, việc bỏ cơ chế
THA theo yêu cầu chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến chủ trương xã hội hóa
hoạt động THADS theo Nghị quyết của Quốc hội về việc tiếp tục thí điểm
chế định Thừa phát lại và cũng vì thế sẽ ảnh hưởng đến quyền của người
được/người phải THA được lựa chọn cơ quan THADS hoặc Thừa phát lại để
THA.
Từ phân tích nêu trên
cho thấy, cần quy định theo hướng cơ quan THADS sẽ chủ động ra quyết định THA
đối với những khoản thuộc diện chủ động THA, đồng thời mở rộng các đối tượng
thuộc diện chủ động ra quyết định THA cho các khoản phải thu cho cơ quan nhà
nước; còn đối với các khoản THA theo đơn yêu cầu, khi đương sự có đơn yêu cầu
THA thì cơ quan THADS sẽ ra quyết định THA và tổ chức việc THA.
Bỏ cơ chế trả đơn dễ gây
tâm lý ỷ lại
Luật
THADS hiện hành quy định trong một số trường hợp cụ thể, cơ quan THA có quyền
trả đơn yêu cầu THA, nhưng cũng có những nghi ngại việc trả đơn sẽ gây khó khăn
cho người được THA, dễ dẫn đến tình trạng trả đơn tùy tiện?
- Trả đơn yêu cầu THA là
một thủ tục nghiệp vụ THADS thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan
THADS. Việc trả đơn yêu cầu THA chỉ áp dụng đối với trường hợp thi hành theo
đơn yêu cầu THA khi có căn cứ xác định người phải THA chưa có điều kiện THA
(thi hành nghĩa vụ về tiền, tài sản…); việc trả đơn yêu cầu THA không làm thay
đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đương sự đã tuyên trong bản án,
quyết định và khi người phải THA có điều kiện THA thì cơ quan THA có trách
nhiệm tiếp tục tổ chức THA theo quy định của pháp luật về THADS .
Điều 51 Luật THADS hiện
hành quy định việc trả đơn yêu cầu THA xuất phát từ tính chất khác nhau của
nghĩa vụ mà hệ quả pháp lý của việc trả đơn yêu cầu THA cũng có sự khác nhau,
đồng thời cũng quy định cơ chế giải quyết việc THA sau khi trả đơn mà phát hiện
người phải THA có điều kiện thi hành. Việc bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành
sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho công tác THADS , trong đó:
Thứ nhất, việc bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu THA sẽ làm tăng
số vụ việc THADS tồn đọng. Trong đó, theo thống kê của ngành THADS
xác định, số vụ việc trả đơn yêu cầu THA của năm 2010 là 16.903 việc, số
tiền 2.427.657.756.000 đồng; năm 2011 là 17.934 việc, số tiền 3.792.015.172.000
đồng; năm 2012 là 17.869 việc, số tiền 4.607.702.812.000 đồng; năm 2013 là
22.505 việc, số tiền 7.392.185.359.000 đồng và năm 2014 là 21.585 việc, số tiền
10.420.623.200.000 đồng.
Tổng cộng 05 năm, số vụ
việc trả đơn là 96.796 việc, số tiền 28.640.184.299.000 đồng. Số vụ việc
trên được xác định chưa có điều kiện THA, không có căn cứ để tổ chức THA nhưng
cơ quan THADS vẫn phải theo dõi xác minh. Điều này dẫn tới số vụ việc
THADS tồn đọng tăng hàng năm nên tổ chức của hệ thống THA phải phình to
hơn để giải quyết tất cả vụ việc chưa có điều kiện THA, không có căn cứ để tổ
chức THA. Như vậy, sẽ gây ra sự lãng phí nhân lực, vật lực, tài lực và thời
gian của Nhà nước nói chung và cơ quan THADS nói riêng.
Thứ hai, việc bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu THA sẽ tạo ra
tâm lý “ỷ lại” của người dân vào Nhà nước; sự “bảo hộ” của Nhà nước trong THADS
sẽ tạo ra cơ chế bao cấp… Điều này sẽ dẫn tới tính chủ động của người dân
sẽ bị giảm sút, không bảo đảm tính hiệu quả trong THADS và chắc chắn sẽ
ảnh hưởng không tốt đến chủ trương xã hội hóa hoạt động THADS theo Nghị
quyết của Quốc hội.
Thứ ba, không bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tự định
đoạt, tự thỏa thuận của các đương sự trong THADS và trái với bản chất của THADS
là việc của hai bên đương sự, khi một bên chưa có điều kiện THA thì phải
trả đơn yêu cầu THA.
Như
vậy, việc giữ cơ chế trả đơn như quy định hiện hành là cần thiết, thưa ông?
- Đúng vậy. Việc giữ cơ
chế trả đơn yêu cầu THA như quy định của luật hiện hành là thực sự cần thiết vì
thực tiễn hoạt động THADS không có vướng mắc; việc trả lại đơn yêu cầu
THA sẽ không làm mất đi quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự đã được xác
định trong bản án, quyết định và không làm tăng số vụ việc tồn đọng, không làm
tăng bộ máy cơ quan THADS, không làm tăng kinh phí hoạt động THADS; mặt khác,
sẽ nâng cao tính trách nhiệm của người dân trong việc phối hợp, cung cấp các
thông tin về điều kiện THA của người phải THA, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác THADS thực chất, bền vững.
Xin
cảm ơn ông!
|