Mới đây báo chí đưa tin: các ni cô
chùa Bửu Trì (phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ) phát hiện
một bé trai bị bỏ rơi bên vệ đường trước cổng chùa. Bé nặng khoảng 7kg,
được quấn trong chiếc khăn cũ, đang ngủ li bì. Ni cô Tâm Niệm - trụ trì
chùa - cũng cho biết, từ đầu năm 2014 đến nay, đã có 5 em bé sơ sinh bị
bỏ rơi trước cổng chùa Bửu Trì và được các ni cô ở đây cưu mang, nuôi
dưỡng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trên phạm
vi 32 tỉnh thành có tới 1.133 trẻ em hiện được nuôi dưỡng trong các nhà
chùa và cơ sở tôn giáo. Phần lớn trẻ em thuộc diện bị bỏ rơi, cha mẹ
không đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng trẻ hoặc là con ngoài giá thú.
Nhiều địa phương cho biết, việc nhà chùa tiếp nhận và nuôi dưỡng trẻ em
đang có chiều hướng gia tăng.
Xét về phương diện chăm sóc và bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, các nhà chùa, sư trụ trì tiếp nhận trẻ em
bị bỏ rơi, cơ nhỡ, không có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ đẻ không có khả năng
nuôi dưỡng là nhằm mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, xu hướng gia tăng số
trẻ em được nuôi dưỡng trong các chùa trong điều kiện khó khăn, thiếu
thốn về vật chất và thiếu hẳn môi trường gia đình là điều mà xã hội và
Nhà nước cần quan tâm thích đáng.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trong
điều kiện như vậy không đáp ứng đặc điểm, nhu cầu và thói quen sinh
hoạt hàng ngày của trẻ em. Mặc dù nhà chùa hoặc các sư trụ trì không ép
buộc trẻ em theo đạo giáo của mình nhưng việc sống tại chùa lâu dài ảnh
hưởng đến quá trình phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em.
Nhà chùa hoặc sư trụ trì chỉ có thể
tiếp nhận trẻ em vào chăm sóc nuôi dưỡng khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện thành lập của một cơ sở bảo trợ xã hội theo quy định tại Nghị định
số 68/2008/NĐ-CP và Nghị định số 81/2012/NĐ-CP (đã có những cơ sở tôn
giáo được công nhận là cơ sở bảo trợ xã hội, đặc biệt có cơ sở tôn giáo
được chỉ định giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài như Nhà Tình
thương Tổ đoàn kết Thuận An, tỉnh Bình Dương).
Như vậy, trong trường hợp nhà chùa
không đáp ứng được điều kiện và thủ tục thành lập cơ sở bảo trợ xã hội
thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em lâu dài cũng sẽ có vấn đề về
phương diện pháp lý. Ngoài ra, còn gây khó khăn cho việc tìm gia đình
thay thế sau này khi trẻ em không có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ đẻ không còn
khả năng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Bởi lẽ thủ tục đăng ký nuôi con nuôi
sẽ gặp khó khăn trong trường hợp nhà chùa không có tư cách pháp nhân của
một cơ sở bảo trợ xã hội để tiếp nhận trẻ em vào chăm sóc và nuôi dưỡng
lâu dài.
Trong trường hợp này, hồ sơ trẻ em sẽ
thiếu nhiều loại giấy tờ theo quy định của pháp luật như Quyết định tiếp
nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng, ý kiến của những người liên quan (sư
trụ trì, nhà chùa không phải là người giám hộ cho trẻ). Rất có thể khi
trẻ em bị bỏ rơi tại đây, nhà chùa không tiến hành thủ tục thông báo cho
các cơ quan có thẩm quyền của địa phương để tiến hành lập Biên bản trẻ
em bị bỏ rơi, nhằm bảo đảm quyền tìm lại cha mẹ đẻ cho trẻ em theo quy
định của pháp luật.
Đăng ký con nuôi là không có cơ sở pháp lý
Qua sơ kết 3 năm thực hiện Luật Nuôi
con nuôi năm 2010, các địa phương đều nhận thức đúng đắn việc các sư trụ
trì, nhà chùa nhận trẻ em sống trong chùa hoặc các cơ sở tôn giáo làm
con nuôi là không phù hợp, không đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho trẻ
em.
Việc nuôi con nuôi như vậy không bảo
đảm mục đích nuôi con nuôi theo Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi là nhằm
xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của
người được nhận làm con nuôi, đảm bảo con nuôi được chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình.
Mặc dù vậy, vẫn có địa phương còn lúng
túng khi từ chối giải quyết đăng ký nuôi con nuôi cho các nhà chùa hoặc
sư trụ trì; có địa phương nhận thức đúng về vấn đề này song vẫn tạo
điều kiện cần thiết để cơ sở tôn giáo được đăng ký nuôi con nuôi với 151
trường hợp trẻ em được các sư trụ trì nhận làm con nuôi.
Không những thế, để vận động, thuyết
phục nhà chùa và sư trụ trì, một số địa phương đã phát huy vai trò của
công tác phối hợp liên ngành giữa UBND tỉnh thành, Sở Tư pháp, Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục, Sở Y tế, Ban Tôn giáo tỉnh ủy
hoặc Mặt trận Tổ quốc thực hiện các hoạt động về nuôi con nuôi và cùng
giải quyết vấn đề nuôi con nuôi nhà chùa.
Nhiều địa phương tổ chức nói chuyện và
giải thích để các sư trụ trì làm đúng theo quy định pháp luật khi có
trẻ em bị bỏ rơi tại chùa cũng như vận động, thuyết phục nhà chùa và sư
trụ trì chuyển trẻ em vào cơ sở bảo trợ xã hội để chăm sóc và nuôi
dưỡng.
Tuy nhiên, vấn đề khá nhạy cảm và phức
tạp này chưa được giải quyết dứt điểm. Không phải sư trụ trì nào cũng
đồng tình với việc giao lại trẻ em vào cơ sở bảo trợ xã hội thuộc ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội để các cháu được hưởng chế độ chăm sóc
và nuôi dưỡng của Nhà nước, được sống trong gia đình thay thế phù hợp.
Theo quan điểm của Cục Con nuôi (Bộ Tư
pháp), việc đăng ký nuôi con nuôi cho nhà chùa hay sư trụ trì chùa là
không đúng quy định của pháp luật. Bởi “việc đăng ký nuôi con nuôi nhà
chùa không đảm bảo đúng mục đích nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ
cha mẹ con giữa người nhận con nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi.
Hơn nữa, pháp luật chỉ cho phép đăng ký nuôi con nuôi giữa cá nhân với
cá nhân. Vì vậy, việc nhà chùa (dưới danh nghĩa tổ chức) đứng tên nhận
trẻ em đang được nuôi dưỡng trong nhà chùa làm con nuôi là không phù
hợp. Cá nhân các sư trụ trì chùa đã xuất gia nương nhờ cửa Phật để tu
hành nên không hướng tới việc tạo lập mái ấm gia đình cho trẻ em. Nghĩa
là, sư trụ trì không đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định tại Điều
14 Luật Nuôi con nuôi. Nhà chùa và các sư trụ trì chỉ có thể chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em, chứ không thể trở thành cha, mẹ nuôi được”,
bà Đào Thị Hà (Phó trưởng Phòng Chính sách văn bản, Cục Con nuôi) giải
thích.
Nghiên cứu mô hình nuôi dưỡng trẻ phù hợp hơn
Trong thời gian qua, bên cạnh công tác
kiểm tra tình hình đăng ký nuôi con nuôi ở các địa phương, Cục Con nuôi
đã hướng dẫn các địa phương về nghiệp vụ đăng ký nuôi con nuôi, thể
hiện thái độ dứt khoát đối với việc không đăng ký nuôi con nuôi nhà
chùa.
Sau khi có hướng dẫn của Cục Con nuôi,
Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp đã chỉ đạo Phòng Tư pháp quận/huyện đề nghị dừng
việc đăng ký nuôi con nuôi nhà chùa khi có yêu cầu, hoặc chỉ giải quyết
thủ tục giám hộ cho nhà chùa hoặc sư trụ trì để trẻ em được nhập khẩu,
đăng ký khai sinh và có đủ điều kiện sau này đi học.
Về giải pháp lâu dài, Cục Con nuôi cho
rằng cần đẩy mạnh hơn công tác tuyên truyền, phổ biến quy định pháp
luật về nuôi con nuôi, nâng cao nhận thức của người dân và các sư trụ
trì chùa trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, giải thích cho sư trụ trì
và nhà chùa chính sách pháp luật của Nhà nước về nuôi con nuôi để trẻ
em có được gia đình thay thế phù hợp; đồng thời tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc giải quyết quyền
và lợi ích của trẻ em được nuôi dưỡng tại các nhà chùa hoặc chuyển trẻ
em vào cơ sở nuôi dưỡng để đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và tìm
gia đình thay thế cho trẻ.
Cục cũng đề nghị Sở Tư pháp hướng dẫn
cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật
đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi trên địa bàn xã/phường.
Đại diện Sở Tư pháp tỉnh Nam Định nhấn
mạnh rằng phải phân biệt việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng trẻ em,
“xem xét việc nhận nuôi con nuôi trong chùa chỉ là quan hệ nuôi dưỡng,
vừa phù hợp với Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi vừa phù hợp với văn hóa
người Việt và giáo lý của đạo Phật”.
Vị đại diện này cũng phân tích, một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em bị bỏ rơi và được nhà
chùa nhận làm con nuôi có xu hướng gia tăng là do hoạt động của một số
trung tâm trợ giúp nhân đạo, trung tâm bảo trợ xã hội còn có những hạn
chế nên đã kiến nghị: “Bộ Tư pháp, các cơ quan liên quan như các tổ chức
nhân đạo, tổ chức nuôi con nuôi quốc tế phối hợp với chính quyền địa
phương nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi dưỡng trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
phù hợp, hiệu quả”.