Theo đó, cơ chế lãnh đạo, điều hành công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật (PBGDPL) được thiết lập từ Trung ương đến cơ sở; cơ chế phối hợp
từng bước phát huy tốt hiệu quả; nguồn nhân lực trong công tác PBGDPL không
ngừng được củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng; việc đầu tư kinh phí và
cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL được quan tâm hơn; nội dung, hình thức và
biện pháp tuyên truyền, PBGDPL cho các đối tượng được hình thành và phát huy
tác dụng; nhiều Chương trình, Đề án về công tác PBGDPL được phê duyệt và triển
khai thực hiện có hiệu quả; số lượt cán bộ và nhân dân được PBGDPL năm sau cao
hơn năm trước; gương người tốt, việc tốt trong học tập và chấp hành pháp luật
xuất hiện ngày càng nhiều…
Tuy nhiên, chính sách xã hội hóa trong công tác PBGDPL hiện
nay chưa phát huy tốt hiệu quả và quá trình triển khai thực hiện gặp không ít
khó khăn (phần lớn các hoạt động PBGDPL đều do ngân sách nhà nước đài thọ,
những đơn vị, địa phương không cân đối được kinh phí thì hoạt động PBGDPL không
được thực hiện). Những khó khăn, bất cập đó xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất,
Luật PBGDPL còn nhiều “rào cản”, chưa có chính sách khuyến khích phù hợp để huy
động đông đảo lực lượng xã hội tham gia. Điều 4 Luật PBGDPL năm 2012 quy định:
“Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia thực hiện PBGDPL; huy động các nguồn
lực xã hội đóng góp cho công tác PBGDPL”. Tuy vậy, Điều 35 Luật PBGDPL lại
quy định: “Báo cáo viên pháp luật là cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan
trong lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công
nhận để kiêm nhiệm thực hiện hoạt động PBGDPL”.
Xét
về nội dung thì hai quy định này hoàn toàn trái ngược nhau, một bên là khuyến
khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia PBGDPL và một bên là
“khống chế” chỉ có cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang nhân dân
mới được công nhận là báo cáo viên pháp luật. Trong khi đó, chế độ thù lao
cho báo cáo viên hoặc những người được mời tham gia PBGDPL còn hạn hẹp. Chính
vì vậy mà báo cáo viên pháp luật không “mặn mà” với nhiệm vụ này và cơ quan đầu
mối không thể huy động tốt hơn những đối tượng khác tham gia hoạt động
PBGDPL.
Bên
cạnh đó, theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 28/2013/NĐ-CP
ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật PBGDPL thì “cá nhân” (kể cả doanh nghiệp tư nhân) tham gia thực hiện
công tác PBGDPL hoặc hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất cho PBGDPL“được hưởng
chính sách quy định tại Điểm a, Điểm c Khoản 1 Điều này”. Trong khi đó, điểm b
Khoản 1 điều 8 thì quy định “được thực hiện hoạt động quảng cáo khi tham gia
PBGDPL miễn phí hoặc hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động
PBGDPL trên cơ sở thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên phù hợp với quy định của
pháp luật về quảng cáo”.
Quy
định này là “rào cản” lớn nhất hiện nay. Bởi, theo Luật Doanh nghiệp thì doanh
nghiệp tư nhân không phải là một tổ chức, không có tư cách pháp nhân, nên nếu họ
có thành tích trong việc tham gia hoặc đóng góp cho công tác PBGDPL thì có thể
được khen thưởng chứ không được quảng bá sản phẩm của mình.
Thứ hai,
nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của công tác PBGDPL chưa đúng mức. Qua
khảo sát thực tế cho thấy, hiện nay phần lớn cán bộ và nhân dân đều nhận thức rằng
hoạt động PBGDPL là hoạt động “chính trị” nên phải do Nhà nước đảm trách. Mặt
khác, các hoạt động này hiện nay không mang lại lợi ích vật chất cho xã hội nên
nếu có tham gia cũng chỉ nhằm mục đích quảng bá sản phẩm của mình.
Thứ ba,
sự vào cuộc của các ngành, các cấp chưa triệt để. Để sớm khắc phục tình trạng
trên, nhanh chóng đưa chủ trương xã hội hóa công tác PBGDPL vào cuộc sống, thiết
nghĩ Nhà nước cần sửa đổi Luật PBGDPL và Nghị định số 28/2013/NĐ-CP của Chính
phủ “mở” và có chính sách khuyến khích phù hợp đối với các tổ chức, cá nhân
tham gia hoặc hỗ trợ cho công tác PBGDPL.
|