Sa đà vào sự vụ nhỏ lẻ, chồng chéo thẩm quyền
Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam,
tư tưởng cải cách tư pháp nhằm phân định ngày càng hợp lý thẩm quyền
giữa các cấp tố tụng đã bắt đầu được triển khai thực hiện từ cách đây
nửa thế kỷ. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Tòa án cấp huyện chỉ có thẩm
quyền xét xử những tội phạm mà pháp luật quy định mức hình phạt đến 2
năm tù.
Qua các giai đoạn phát triển, thẩm quyền
của các cơ quan tư pháp cấp huyện từng bước được “nâng cấp” và tăng
cường. Theo đó, tăng thẩm quyền thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự
cho cơ quan tư pháp cấp huyện lên mức 5 năm tù (năm 1981), 7 năm tù (năm
1988) và từ năm 2003 đến nay là 15 năm tù.
Có thể thấy, cải cách tư pháp ở nước ta
trong suốt mấy chục năm qua hướng tới mô hình tư pháp giao chủ yếu thẩm
quyền giải quyết các vụ án cụ thể cho cấp huyện và cấp tỉnh đảm nhiệm;
cơ quan tư pháp Trung ương tập trung vào công tác kiểm tra, đôn đốc,
tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án
hình sự chưa đáp ứng yêu cầu nêu trên. Cơ quan tiến hành tố tụng ở trung
ương vẫn chủ yếu đi vào giải quyết các vụ án cụ thể; việc rút vụ án
thuộc thẩm quyền tố tụng của cấp tỉnh, thậm chí của cấp huyện để giải
quyết vẫn còn khá nhiều.
Phó Viện trưởng VKSND Tối cao Lê Hữu Thể
thẳng thắn thừa nhận, thực tế trên một mặt làm giảm sút vai trò của các
cơ quan đầu não trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn
và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; mặt khác, tạo ra những xáo
trộn không nhỏ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng, nhiều
trường hợp cơ quan tố tụng cấp cao không thể theo vụ án đến cùng mà
phải ủy quyền cho cấp dưới tiếp tục tiến hành tố tụng.
Cấp trên sai, cấp dưới “bó tay”
Nhiều ý kiến cho rằng, việc các cơ quan
tố tụng trung ương tự ý rút vụ án lên điều tra, truy tố sau đó lại ủy
quyền cho cấp dưới giữ quyền công tố tại tòa án như vậy khác nào “mang
con bỏ chợ”, làm khó cho cấp dưới. Thực tế đã có nhiều vụ án, khi được
ủy quyền tham gia xét xử, cơ quan tố tụng cấp dưới phát hiện vụ án do cơ
quan điều tra cấp trên có dấu hiệu oan sai, nhưng lại không dám rút
truy tố. Cũng vì không trực tiếp điều tra nên nhiều vụ án, thay vì phải
phải có thái độ sòng phẳng, công tâm, nhìn thẳng vào sự thật để thừa
nhận oan sai thì đằng này họ chỉ biết dừng lại, xin ý kiến cấp trên.
Lý giải thực tế trên, LS Đỗ Minh Thu
(ĐLS Nam Định) cho rằng pháp luật tố tụng hình sự cho phép cơ quan tố
tụng trung ương được rút những vụ án khó, phức tạp hoặc quá trình thực
thi cấp dưới đã có vi phạm nghiêm trọng lên để giải quyết, nhằm đảm bảo
khách quan minh bạch hơn.
Vậy nên, theo quy luật, nếu cấp dưới sai
phạm thì cấp trên được quyền sửa, hủy chứ không có tình trạng ngược
lại. Lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam chưa từng xảy ra trường hợp VKSND
cấp huyện hoặc tỉnh được VKSNDTC ủy quyền tham gia phiên tòa mà dám rút
quyết định truy tố của cấp trên, dù biết rõ mười mươi là thiếu căn cứ
pháp luật.”- Luật sư Thu nhấn mạnh.
“Nếu sai phạm là do cơ quan điều tra cấp
huyện hoặc cấp tỉnh thực hiện thì người dân còn có “cửa” kêu oan lên
cấp tối cao và còn có hy vọng được minh xét. Còn nếu đã là VKSNDTC điều
tra hoặc truy tố thì coi như “vô phương kêu oan” chỉ vì cấp Tối cao
không chịu thừa nhận họ làm oan, sai.”- Đồng quan điểm trên, LS Ngô
Trung Kiên (ĐLS tỉnh Hà Giang) bức xúc phát biểu.
Ở góc độ khác, cũng vì cơ quan cấp cao
mải sa đà vào những việc nhỏ lẻ có tính chất sự vụ nên có xao nhãng, ảnh
hưởng đến chức năng kiểm tra, đôn đốc công tác của cấp dưới; hoặc khi
cấp dưới có vướng mắc, cần xin ý kiến đường lối thì lại chậm nghiên cứu,
hướng dẫn giải quyết, ảnh hướng đến việc áp dụng thống nhất pháp luật.
Phân định hợp lý thẩm quyền để tăng trách nhiệm, giảm oan sai
Nhằm tiếp tục thực hiện tư tưởng phân
định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp tố tụng, tăng cường hơn nữa sự độc
lập của hệ thống tư pháp, một trong những chủ trương quan trọng được đề
ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị đó là tổ chức hệ thống Tòa án, VKS theo
thẩm quyền tố tụng, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, thực hiện mô
hình Tòa án, VKS 4 cấp thay cho mô hình 3 cấp như hiện nay.
Cụ thể, hệ thống TAND gồm: TAND sơ thẩm
khu vực, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao, TANDTC. Mô hình VKSND cũng được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án, gồm: VKSND khu vực, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp cao, VKSNDTC.
Hệ thống CQĐT trong Công an nhân dân cơ
bản giữ nguyên mô hình tổ chức như hiện nay, gồm: CQĐT Công an cấp
huyện, CQĐT Công an cấp tỉnh và CQĐT thuộc Bộ Công an. Việc phân định
thẩm quyền theo Nghị quyết 49 vừa khắc phục được tình trạng cơ quan tố
tụng cấp trên tùy tiện rút án của cơ quan tố tụng cấp dưới lên để điều
tra, truy tố, vừa khắc phục được tình trạng cơ quan tố tụng bị chi phối,
ảnh hưởng bởi sự “chỉ đạo” của cơ quan hành chính, chính quyền trực
thuộc. Đó cũng là một trong những mục tiêu quan trọng để tiến tới một
nền tố tụng hình sự dân chủ, khách quan, minh bạch. |