Bảo Trợ tư pháp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta để bảo
dảm trên thực tế quyền bình đẳng của mọi công dân- một quyền Hiến định cơ bản
được xác lập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên- Điều 7, Hiến pháp 1946 và tiếp tục
được củng cố trong suốt quá trình lập hiến của nhà nước ta từ đó cho đến nay -
Hiến pháp 1992- nhằm góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.
Với sự quan tâm của Nhà nước, của toàn xã hội, Hội Bảo trợ Tư pháp cho
người nghèo Việt Nam là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của những người làm công
tác trợ giúp pháp lý miễn phí và những người tán thành Điều lệ Hội, ủng hộ các
hoạt động của Hội về tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo, đối tượng chính sách, nhóm yếu thế đã và đang đi vào ổn định và phát
triển có chiều sâu, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật và ổn định tình hình xã
hội, góp phần thúc đẩy quá trình cải cách tư pháp nhằm “…góp phần xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người” như Chiến lược cải cách tư pháp đã xác định. Chúng ta cùng nhìn về
sự phối hợp đã có của các cơ quan bảo vệ pháp luật để xác định rõ hơn mối quan
hệ phối hợp với Hội:
Việc tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân
dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác với Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia, đã mang lại lợi ích thiết thực trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Từ đó, tạo nên bước chuyển biến mới trong hoạt động trợ giúp pháp lý, góp phần
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hoạt động thực thi pháp luật cũng như
trong việc thực hiện Nghị quyết 48- NQ/TW ngày 25/5/2005 cỏa Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, góp phần tích cực vào quá trình cải cách tư pháp, cải
cách bộ máy nhà nước trong mối quan hệ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của chúng ta.
Trên cơ sở quán triệt và triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số
10/2007, Hội đồng phối hợp liên ngành về Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố
tụng c được thành lập và đi vào hoạt động từ đó công tác hướng dẫn, kiểm tra
đôn đốc và chỉ đạo sự phối hợp giữa các ngành thành viên trong việc giải quyết
những vấn đề cụ thể đã được thực hiện thường xuyên. Ví dụ: cung cấp Bảng thông
tin về trợ giúp pháp lý, mẫu đơn đề nghị trợ giúp pháp lý. Đồng thời đẩy mạnh
công tác truyền thông trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, theo đó các
ngành đã tập trung vào nội dung cơ bản như giải thích quyền được trợ giúp pháp
lý, cung cấp hướng dẫn mẫu đơn đề nghị được trợ giúp cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình tham gia tố
tụng; các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đã nghiêm túc thực hiện việc cấp, thu
hồi Giấy chứng nhận tham gia tố tụng cho các Trợ giúp viên pháp lý, luật sư-
cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Có thể nói trong các giai đoạn của quá trình
tiến hành tố tụng, quyền lợi về trợ giúp pháp lý của các đối tượng trợ giúp
pháp lý được các cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng và bảo đảm, qua đó đã góp
phần tích cực trong việc bảo đảm cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án được tiến hành khách quan, chính xác và đúng pháp luật.
Để có sự phối hợp tích cực của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viên kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân) với Hội bảo trợ tư pháp nhằm
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
và tạo ra bước phát triển mới trong tham gia tố tụng, góp phần thúc đẩy quá
trình cải cách tư pháp trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Hội trân
trọng đề nghị các quý vị đại biểu tập
trung thảo luận để xây dựng mỗi quan hệ trên nền tảng công tác phối hợp hiện
này, nhằm khắc phục một số tồn tại đó là:
Trong quá trình triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý nhiều nơi mới chỉ
chú trọng nhiều đến cung cấp dịch vụ pháp lý, chưa thực sự coi trọng việc truyền
thông, giáo dục pháp luật về trợ giúp pháp lý, do đó chưa thu hút và huy động
được mọi lực lượng xã hội rộng rãi vào hoạt động trợ giúp pháp lý và theo đó
chưa huy động được mọi nguồn lực của xã hội vào lĩnh vực công tác này. Và chính
vì vậy tỷ lệ người được hưởng sự trợ giúp pháp lý còn rất thấp so với đối tượng
được quy định trong Luật trợ giúp pháp lý, đặc biệt là số người thuộc đối tượng
được trợ giúp pháp lý ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa và vùng nông
thôn.
Lực lượng trợ giúp pháp lý nhìn chung còn mỏng thiếu tính chuyên nghiệp
cao trong khi đó chúng ta chưa huy động được nguồn lực xã hội đặc biệt là nguồn
lực từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp làm cho
kết quả của công tác trợ giúp pháp lý chưa đáp ứng với yêu cầu pháp lý hiện
nay.
Một số khó khăn vướng mắc về pháp lý như: Luật trợ giúp pháp lý chỉ
giới hạn bốn đối tượng được trợ giúp pháp lý (người nghèo, người có công, người
cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số
thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn). Trong khi
thực tế một số đối tượng khác cũng cần được trợ giúp pháp lý là người chưa
thành niên, nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ
nữ, trẻ em, đây cũng là khó khăn cho các trợ giúp viên pháp lý khi làm thủ tục trợ
giúp pháp lý cho đối tượng vừa nêu. Về địa vị pháp lý của trợ giúp viên pháp lý
khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa chưa được xác định trong bộ
luật tố tụng hình sự nên khó khăn cho các trợ giúp viên pháp lý trong quá trình
thực thi chuyên môn của mình.
Ngoài ra, việc Hội đồng phối hợp liên ngành chưa thường xuyên có sự
hướng dẫn cụ thể đối với các đơn vị nên một số vấn đề vướng mắc chưa được tháo
gỡ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
của trợ giúp pháp lý, chuwatichs cực kiến nghị với Hội đồng Trung ương
như: việc bổ sung vào thành phần Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp
lý cấp tỉnh đối với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng hay
vấn đề cần mở rộng đối tượng trợ giúp pháp lý…
Hội BTTP đề nghị cùng phối hợp tháo gỡ các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến Luật trợ giúp pháp lý
sâu rộng hơn nữa cho quần chúng nhân dân, các cơ quan, tổ chức chính trị- xã hội
nhằm thu hút hơn nữa nguồn lực xã hội vào các hoạt động trợ giúp pháp lý
Thứ hai, cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi một số điều của Bộ luật tố
tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật trợ giúp pháp lý theo hướng xác định
địa vị pháp lý của đối tượng Trợ giúp viên pháp lý trong vai trò là người bào
chữa tham gia vào quá trình tố tụng. Đồng thời, mở rộng đối tượng được trợ giúp
pháp lý đối với nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người.
Thứ ba, đối với Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong
hoạt động tố tụng của địa phương cần bổ sung thêm thành phần là Bộ chỉ huy quân
sự tỉnh, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng, Hội bảo trợ tư pháp cấp tỉnh.
Thứ tư, bên cạnh việc phát triển Trợ giúp viên pháp lý, cần có sự tham
gia Hội tích cực từ phía cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, tích cực hỗ trợ
nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và kỹ năng tác nghiệp bảo trợ tư pháp.
Việc xây dựng, phát
triển và nâng cao quan hệ phối hợp với Hội bảo trợ tư pháp sẽ một mặt giúp Hội
có thêm lực lượng và phạm vi hoạt động thiết thực hơn, mặt khác cũng giúp cơ
quan bảo vệ pháp luật có thêm nguồn lực tham gia tố tụng, tăng số vụ việc có
đại diện, bào chữa.
Phó chủ tịch Luật
sư, Tiến sỹ: Nguyễn Đình Lục
|