Luật sư Lê
Văn Đài, Văn phòng luật sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời vấn đề
bà Mai hỏi như sau:
Trước ngày
1/5/2013, theo quy định của tại Điều 28 Bộ
luật Lao động 1994, hợp đồng lao động (HĐLĐ) được ký kết bằng văn bản và
phải được làm thành 2 bản, mỗi bên giữ 1 bản. Đối với một số công việc
có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng hoặc đối với lao động giúp
việc gia đình thì các bên có thể giao kết bằng miệng. Pháp luật về lao động khi
đó, không có quy định nào cho phép người sử dụng lao động được quyền thu tiền
đặt cọc đối với người lao động làm việc ở trong nước. Theo đó, việc Công ty sử
dụng lao động thời gian từ 3 tháng trở lên mà không ký HĐLĐ bằng văn bản và thu
tiền đặt cọc của bà Mai là vi phạm pháp luật lao động.
Vào thời điểm bà
Mai được nhận vào làm việc tại Công ty (tháng 8/2010), Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 47/2010/NĐ-CP
ngày 6/5/2010 quy định về xử phạt hành chính hành vi vi phạm pháp luật lao
động. Tại điểm a, khoản 2; điểm a khoản 4 và điểm b, điểm c khoản 5 Điều 8 của
Nghị định này quy định mức phạt tiền đối với người sử dụng lao động có hành vi
không ký kết HĐLĐ đối với trường hợp phải ký kết HĐLĐ với người lao động theo
mức từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 1 người đến 10 người
lao động; phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với người sử
dụng lao động có hành vi bắt người lao động đặt cọc tiền không tuân theo những
quy định của pháp luật.
Ngoài hình thức
xử phạt, người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như: Tiến
hành giao kết đúng loại hợp đồng theo quy định của pháp luật; Trả lại số tiền
đặt cọc cho người lao động cùng với số lãi suất của số tiền đặt cọc đó (lãi
suất được tính theo mức lãi suất không kỳ hạn mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố tại thời điểm nhận tiền đặt cọc).
Bộ
luật Lao động năm 2012 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/5/2013. Theo khoản
1, Điều 18 và khoản 2, Điều 20 Bộ luật này, trước khi nhận người lao động vào
làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết
HĐLĐ. Người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động phải thực hiện
biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác khi làm việc cho mình.
Việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động được thay thế bằng Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng.
Tại điểm a,
khoản 1, điểm b, khoản 2 và điểm b, khoản 3, Điều 5 Nghị định nêu trên quy
định: Phạt tiền người sử dụng lao động khi có hành vi không giao kết HĐLĐ bằng
văn bản đối với công việc cố định có thời hạn trên 3 tháng từ 500.000 đồng đến
2.000.000 đồng với vi phạm từ 1 người đến 10 người lao động; Phạt tiền từ
20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một hành
vi buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm (đặt cọc) bằng tiền hoặc tài
sản khác cho việc thực hiện HĐLĐ. Buộc trả lại số tiền hoặc tài sản đã giữ của
người lao động cộng với khoản tiền lãi của số tiền đã giữ của người lao động
tính theo lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi vi phạm.
Người
lao động có quyền khởi kiện hoặc khiếu nại doanh nghiệp
Nếu sự việc đúng
như bà Ngọc Mai phản ánh, thì công ty nơi bà đã làm việc có nhiều hành vi vi
phạm pháp luật về lao động, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Để bảo
vệ quyền lợi, bà Mai có thể khiếu nại đến Thanh tra Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty có trụ sở
yêu cầu giải quyết.
Do bà Mai không
được ký, không có HĐLĐ, không có phiếu thu tiền đặt cọc (mặc dù bà cũng có thể
cung cấp chứng cứ khác thay thế để chứng minh thời gian làm việc tại Công ty
như bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương của toàn bộ số tháng của 4 năm
làm việc, tuy nhiên việc này rất khó khăn), nên việc yêu cầu Tòa án giải quyết
sẽ gặp vướng mắc về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi
kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Bà Mai có thể
gửi đơn khiếu nại đến Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành
phố nơi Công ty có trụ sở để yêu cầu giải quyết các vấn đề sau:
- Ra quyết định
xử phạt hành chính đối với Công ty về các hành vi vi phạm pháp luật lao động
như: Không ký HĐLĐ, bắt người lao động phải đặt cọc, không lập hồ sơ tham gia,
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động.
- Buộc Công ty
trả lại tiền đặt cọc, cộng với khoản lãi số tiền đã giữ của bà Mai.
- Buộc Công ty
phải trả tiền trợ cấp thôi việc cho bà Mai theo quy định tại Điều 48 Bộ luật
Lao động, cứ mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng lương. Tiền lương để tính
trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 6 tháng liền kề bà Mai được nhận
trước khi thôi việc. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng
thời gian bà Mai đã làm việc thực tế cho công ty (do Công ty không lập hồ sơ
tham gia, không đóng bảo hiểm thất nghiệp cho bà Mai nên bà Mai không được
hưởng bảo hiểm thất nghiệp).
- Buộc Công ty
phải bồi thường cho bà Mai một khoản tiền tương đương khoản tiền bảo hiểm xã hội
một lần theo Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm làm việc bằng 1,5 tháng
mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội (Do công ty
không lập hồ sơ tham gia, không đóng bảo hiểm xã hội cho bà Mai).
Luật sư
Lê Văn Đài
VPLS
Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội
|