Luật sư Lê Văn Đài, Văn phòng luật
sư Khánh Hưng - Đoàn luật sư Hà Nội trả lời ông Quyền như sau:
Giao người trực tiếp nuôi con
Theo Điều 92, Luật Hôn nhân và
gia đình, sau khi
ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con
chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Vợ, chồng thoả thuận về người trực
tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu
không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi
căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con đặc biệt là các điều kiện cho sự phát
triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt
về tinh thần của con; nếu con trên ba tuổi đến dưới chín tuổi do Tòa án quyết
định; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về
nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không
có thoả thuận khác.
Người không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân
biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực
tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm
những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên
thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên Tòa án sẽ quyết định mức cấp dưỡng
nuôi con cho hợp lý.
Về phương thức cấp dưỡng do các bên
thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong
trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp
dưỡng định kỳ hàng tháng.
Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
Theo quy định tại khoản 1, khoản 3
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do
vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ
hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung
khi vợ chồng có thoả thuận.
Trong trường hợp không có chứng cứ
chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên
thì tài sản đó là tài sản chung.
Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản riêng của vợ, chồng gồm
tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng từ
tài sản chung vợ chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân.
Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
được quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình như sau:
- Tài sản riêng của bên nào thì
thuộc quyền sở hữu của bên đó.
- Việc chia tài sản khi ly hôn do các
bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc chia tài sản chung được giải
quyết theo các nguyên tắc sau đây: Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc
được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công
sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao
động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.
Tài sản chung của vợ chồng được chia
bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá
trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị
chênh lệch.
Việc thanh toán nghĩa vụ chung về
tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì
yêu cầu Toà án giải quyết.
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng
minh
Theo quy định tại khoản 1, khoản 4
Điều 79 Bộ luật tố tụng dân
sự thì, đương sự có
yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra
được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc
không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
Vì vậy, nếu muốn được Tòa án giao
cho ông được trực tiếp nuôi con, ông Quyền phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
rằng ông có đủ điều kiện đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các
điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện
cho sự phát triển tốt về tinh thần của con; Tòa án sẽ đánh giá các chứng cứ do
ông và vợ ông đã giao nộp, cân nhắc xem ai đầy đủ các điều kiện hơn, để quyết
định giao cho một người trực tiếp nuôi dưỡng con.
Về tài sản riêng là đất ở, nhà ở ông
đã mua và xây dựng trước khi đăng ký kết hôn, chưa nhập tài sản đó vào khối tài
sản chung vợ chồng; về tài sản chung của vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn
nhân; về nghĩa vụ thanh toán chung đối với các khoản nợ của ngân hàng… ông
Quyền phải đưa ra, giao nộp cho Tòa án đầy đủ các chứng cứ để chứng minh tài
sản nào là tài sản riêng, tài sản nào là tài sản chung, khoản nợ nào là nợ
chung. Tòa án sẽ đánh giá các chứng cứ do ông và vợ ông giao nộp để xác định
tài sản riêng, tài sản chung, nghĩa vụ thanh toán chung, để chia tài sản và
chia nghĩa vụ trả nợ theo nguyên tắc quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia
đình.
Trường hợp giao dịch hợp pháp do một
trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình
thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.
Luật sư Lê Văn Đài
VPLS Khánh Hưng, Đoàn luật sư Hà Nội
|