BHXH Việt Nam trả lời bà Lan như
sau:
Về chế độ hưu trí, tại Khoản 1, Điều 51
Luật BHXH hiện hành quy định: Người lao động đã đóng BHXH đủ 20 năm trở
lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hưởng lương hưu với mức thấp
hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định của Luật BHXH khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây: “Nam đủ năm mươi tuổi, nữ đủ bốn mươi lăm
tuổi trở lên”. Đối chiếu quy định nêu trên đến thời điểm hiện tại bà Lan (42
tuổi) chưa đủ điều kiện về tuổi đời để được hưởng lương hưu.
Trường hợp của bà Lan có thể nghỉ hưu căn cứ theo
quy định tại Luật BHXH số 58/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016
với điều kiện về tuổi đời, mức suy giảm khả năng lao động và mức hưởng như sau:
Tại Khoản 1, Điều 55 quy định: Người lao động khi nghỉ việc có
đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Từ ngày 1/1/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi
và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương
hưu khi suy giảm khả năng lao động. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến
năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng
lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;
- Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên;
- Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và
có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.
Tại Điều 56 quy định về mức lương hưu hằng
tháng như sau: Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày
1/1/2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại
Điều 54 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng
BHXH quy định tại Điều 62 của Luật này tương ứng với 15 năm đóng
BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức
tối đa bằng 75%.
Từ ngày 1/1/2018, mức lương hưu hằng tháng của
người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng
45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH quy định tại Điều 62 của Luật này
và tương ứng với số năm đóng BHXH như sau:
- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm,
năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi
là 20 năm;
- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15
năm.
Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định
tại điểm a và điểm b khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.
Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ
điều kiện quy định tại Điều 55 của Luật này được tính như quy định tại Khoản 1
và Khoản 2 Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm
2%.
Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 6
tháng thì mức giảm là 1%, từ trên 6 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do
nghỉ hưu trước tuổi.
Mức lương hưu hằng tháng của lao động nữ đủ điều
kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Khoản 3 Điều 54 được tính theo số năm
đóng BHXH và mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH như sau: đủ 15 năm đóng
BHXH tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH quy định tại Điều
62 của Luật này. Từ đủ 16 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH, cứ mỗi năm đóng tính
thêm 2%.
Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất của người lao
động tham gia BHXH bắt buộc đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều
54 và Điều 55 của Luật này bằng mức lương cơ sở.
Về quyền lợi về bảo hiểm thất nghiệp, tại Điểm d, Khoản 1, Điều 53 Luật Việc làm quy định: Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị
chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp khi được hưởng lương hưu hằng
tháng. Như vậy, trường hợp bà Lan không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi
hưởng lương hưu.
|