Cô gái nghèo bất hạnh
Nguyễn Thị Nụ là chị cả trong gia đình
nông dân nghèo có ba chị em gái ở thôn Dục xã Yên Bình (huyện Thạch
Thất, TP. Hà Nội). Năm 21 tuổi, Nụ được anh Nguyễn Văn L.- ngụ cùng xã
để ý, quen nhau chóng vánh rồi tiến tới hôn nhân. Cô gái trẻ và gia đình
suy nghĩ đơn giản rằng: Đều là người làng người nước cả, có đâu xa mà
phải tìm hiểu kỹ càng. Vả lại, năm đó Nụ cũng đã ngoài đôi mươi, tuổi ấy
nhiều cô gái thôn quê đã con bế con bồng. Nụ là con gái nhà nghèo, lại
chẳng được xinh đẹp sắc sảo nên đâu có nhiều cơ hội để mà lựa chọn.
Sau đám cưới đơn giản, Nụ về chung sống
cùng đại gia đình nhà chồng. Về làm dâu nhà anh L., dù không được khéo
léo, chỉn chu nhưng nhờ gia đình chồng bao dung, “chín bỏ làm mười” nên
cuộc sống của Nụ cũng êm ấm thuận hòa. Không lâu sau thì Nụ mang bầu nên
chỉ ở nhà nội trợ. Còn chồng cô rời gia đình để đi làm ăn xa.
Cái câu “yêu như yêu vợ mới cưới” dường
như không đúng với hoàn cảnh của Nụ chút nào vì cô chưa từng được say
men của hạnh phúc lứa đôi. Trong nỗi buồn thân phận, Nụ tự an ủi, chồng
đi làm sẽ có thêm đồng ra đồng vào, kiếm tiền nuôi con nhỏ sau này.
Nhưng thực tế, đi làm ăn xa nhưng chồng Nụ cũng chẳng có tiền mang về
giúp vợ nuôi con, thậm chí là đóng góp tiền ăn cũng không có.
Cưới năm trước, năm sau Nụ sinh con trai
đầu lòng là bé Nguyễn Đức V. (nạn nhân bị sát hại trong vụ án). Sinh
được cho nhà chồng quý tử nhưng Nụ chẳng được chiều chuộng , nâng niu
như người ta thường nói. Thậm chí, suốt thời gian Nụ mang thai anh L
cũng chỉ đảo qua nhà vài bận, đến khi vợ vượt cạn anh L. lấy lý do “bận
công việc” cũng chẳng về.
Nhà chồng Nụ khá giả nhưng nếp sống giản
dị và tiết kiệm, vợ chồng cô thì chẳng có tiền tích cóp nên từ khi “nằm
ổ”, Nụ chẳng được chăm sóc, bồi dưỡng như những sản phụ khác.
Từ khi sinh con, Nụ chỉ được “bồi dưỡng”
vỏn vẹn có bốn bữa cơm có thịt. Thiếu dinh dưỡng nên hai mẹ con Nụ đều
gầy ốm, Nụ thiếu sữa, đứa con quấy khóc ngằn ngặt suốt ngày đêm. Nhà Nụ
thì nghèo nên thi thoảng, mẹ đẻ Nụ chạy qua thăm con, thấy con gái mới
đẻ mà gầy ốm, tinh thần suy sụp cũng rất thương xót nhưng chỉ cho con
được chục trứng gà bồi dưỡng chứ không có điều kiện chăm sóc như người
ta.
Cùng quẫn
Cũng trong thời gian này, vợ chồng Nụ
thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã. Theo Nụ trình bày thì ngoài nguyên
nhân kinh tế khó khăn, thì lý do chính là do anh L. ít quan tâm đến vợ.
Vợ chồng cưới xong, gần nhau được ít ngày thì anh L. đi làm ăn xa, rồi
Nụ bầu bí, thai sản phải kiêng cữ, tình cảm vợ chồng Nụ cứ ngày một cách
xa.
Từ khi sinh nở , khoảng cách giữa vợ
chồng Nụ càng xa vời vợi. Nụ tâm sự với Luật sư của mình, nhiều đêm,
sau khi dỗ cho con say giấc, Nụ khẽ đặt tay lên người chồng nhưng bị anh
L. hất tay ra để ngủ .Trong hoàn cảnh ấy, một người vợ trẻ cạn nghĩ,
hiểu biết hạn hẹp suy đoán ngay rằng chồng mình đi ra ngoài đã có nhân
tình nhân ngãi nên chẳng thèm ỏ ê gì đến vợ. Đã thế, Nụ còn thấy chồng
thường nhắn tin gọi điện cho ai đó mà cô ta nghi ngờ là quan hệ ngoài
luồng. Nụ đã căn vặn nhưng chồng cô chỉ ậm ừ, không giải thích rõ ràng.
Đêm 18/11/2009, bé V. khát sữa quấy
khóc, Nụ không có sữa cho con bú nên bế con đặt cạnh chồng để chồng dỗ
nhưng anh L mặc kệ đứa con khóc ngằn ngặt, nằm quay mặt vào tường ngủ
tiếp. Thấy chồng chẳng thương xót gì đến con trai quấy khóc oặt ẹo, cũng
chẳng quan tâm đến thái độ u uất của vợ nên tâm trạng Nụ vô cùng nặng
nề quẫn bách.
Cô đinh ninh rằng anh L. đã có người đàn
bà khác. Đêm đó, dỗ cho con ngủ xong, Nụ nằm khóc một mình. Trong trạng
thái tinh thần quẫn bách, mờ sáng hôm đó Nụ đã bế con thả xuống giếng,
sau đó lu loa lên rằng cháu Nguyễn Đức V. bị kẻ trộm vào tận giường bắt
cóc một cách bí ẩn.
Rạng sáng, người nhà dậy múc nước ở
giếng khơi mới kinh hoàng khi thấy cháu bé nổi lập lờ dưới giếng trước
trước sân nhà. Cái chết thương tâm của bé trai 4 tháng tuổi gieo vào
lòng người thân nỗi đau xót bàng hoàng. Ai cũng suy đoán có kẻ nào đó
mâu thuẫn với gia đình nên đã sát hại cháu bé để trả thù. Không quá khó
khăn khi cơ quan công an xác định hung thủ gây án chính là Nguyễn Thị
Nụ.
Rơi lệ vì thương cảm
Tôi được TAND TP. Hà Nội chỉ định bào
chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Nụ. Hơn nửa năm xảy ra vụ án thương tâm, Nụ
phải đền tội trước tòa sơ thẩm bằng mức án 12 năm tù về tội “Giết
người’. Nụ ra tòa trong tình trạng tinh thần suy sụp nặng nề, nữ bị cáo
hầu như chỉ khóc ròng.
Trong lời bào chữa của mình, tôi đã
trình bày những căn cứ nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ,
và quan trọng hơn khơi dậy lòng cảm thông sự bao dung để dư luận có cái
nhìn công bằng và nhân văn hơn với bị cáo. Luật sư nhấn mạnh những thiếu
thốn về vật chất không đáng sợ bằng sự cô đơn, thiếu thốn về tình cảm.
Trong suốt ba tháng sau khi sinh con, Nụ
chỉ được 4 lần ăn cơm có thịt, không có sữa cho con bú nên cháu bé quấy
khóc ngằn ngặt. Tình cảnh này khiến Nụ rơi vào cảm giác trống rỗng,
tuyệt vọng dẫn đến mắc căn bệnh trầm cảm sau sinh. Y học đã chứng minh
biểu hiện của căn bệnh này là người mắc phải thường nảy sinh những ý
nghĩ ám ảnh có liên quan đến bạo lực, hoặc xuất hiện ảo giác. Ở những
trường hợp bệnh nặng, người mẹ có thể có ý nghĩ giết hại đứa trẻ, và cố
tìm cách thực hiện suy nghĩ này. Nguyễn Thị Nụ gây án trong trường hợp
như vậy.
Đã từng tham gia nhiều phiên tòa nhưng
tôi chưa thấy vụ án nào lại đau xót, ám ảnh đến như vậy. Khi Nụ ngã quỵ
trước vành móng ngựa vì bị tuyên án 12 năm tù, trong khi anh L tiến đến
hỏi tòa án về thủ tục để được ly hôn. Chứng kiến cảnh đó tôi đã rơi lệ
vì chua xót. Nụ là hung thủ của vụ án, nhưng xét ở góc độ khác, cô đồng
thời là một nạn nhân của cái nghèo, nạn nhân của thói lạnh lùng vô cảm
của chính những người thân yêu nhất trong gia đình. |