Đổi mới trong nhận thức
về chủ thể của quyền lập Hiến
Trước hết có thể thấy,
Hiến pháp năm 2013 đã được thông qua theo một quy trình dân chủ, bảo đảm việc
lấy ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện ý chí của đông đảo nhân
dân lao động. Điều đó khẳng định mặc dù có sự sửa đổi xong thực tế quyền xây
dựng Hiến pháp trước hết thuộc về nhân dân.
Một điểm mới về quyền
lực trong Hiến pháp năm 2013 đó là việc nhận thức về chủ thể của quyền lập
hiến. Cụ thể, nếu như trong Hiến pháp năm 1992 tại Điều 83 có quy định “Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” thì sang Hiến pháp năm
2013 nội dung này đã được quy định như sau: “... Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp...” (Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Việc sửa đổi nội dung
này là hoàn toàn hợp lý và đảm bảo sự phù hợp với tư tưởng “tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân” quy định tại Điều 3 Hiến pháp mới. Quốc hội không
phải là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, Quốc hội chỉ là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, Nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lập hiến.
Ngoài việc khẳng định quyền lập hiến thuộc về Nhân dân, vai trò của Nhân dân
cũng được khẳng định rất rõ trong quy trình làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến
pháp.
Một điểm mới nữa có thể
thấy của Hiến pháp mới được ban hành, đó là sự đề cao nguyên tắc Nhân dân là
chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, phần nào khắc phục sự chưa hợp lý trong
quy định về hình thức thực hiện quyền lực của Nhân dân. Nếu như Hiến pháp năm
1992 chỉ ghi nhận một cách chung chung “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân” thì đến Hiến pháp năm 2013 nội dung
này được cụ thể hóa tại Điều 6 ghi nhận “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”
Như vậy, bằng việc sửa
đổi Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm tiến bộ, điểm mới rất đáng
ghi nhận trong đó việc tiếp tục thể hiện và cụ thể hóa những nội dung xoay
quanh vấn đề quyền lực là những nội dung đặc biệt quan trọng bởi đó là cơ sở,
nền tảng để triển khai những nội dung khác trong Hiến pháp.
Lần đầu đưa được chế
định “kiểm soát” quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
Trong lịch sử bộ máy nhà
nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Tuy nhiên, bộ máy nhà
nước ta có tiếp thu những điểm hợp lý trong lý thuyết phân quyền của các nhà
nước tư sản. Trên cơ sở kế thừa các bản Hiến pháp trước đó và có sự phát triển
phù hợp với xu thế của thời đại, Hiến pháp năm 2013 tại Điều 2 quy định: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Có thể thấy, với quy
định tại Điều 2 nêu trên, về cơ bản chúng ta vẫn kế thừa tư tưởng “Quyền lực
nhà nước là thống nhất” được quy định trong các bản Hiến pháp trước. Tuy nhiên,
một điểm sửa đổi rất đáng ghi nhận của Hiến pháp năm 2013 đó là việc đề xuất và
đưa được chế định “kiểm soát” quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
Tư tưởng kiểm soát quyền
lực nhà nước có từ rất sớm, tư tưởng này được các nhà triết học đặt ra từ thời
La Mã cổ đại và được bổ sung, phát triển ở thời kỳ Khai sáng. Theo đó, các
nhánh quyền lực được giới hạn bằng công cụ pháp lý thông qua việc phân chia
thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhánh quyền lực này chỉ
được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật. Sự phân chia này
không chỉ nhằm chuyên môn hoá các quyền mà còn tạo ra cơ chế giám sát, chế ước
lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, tạo ra sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước trong bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ đặc điểm,
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, “Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và Hiến pháp mới năm 2013 đã có sự thay
đổi một bước trong cách thức tư duy về phân công thực hiện quyền lực nhà nước.
Có thể nói, Hiến pháp mới đã quy định rõ nét hơn, rành mạch hơn đối với các cơ
quan công quyền cấp cao trong việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp. Theo đó, “Quốc hội thực hiện quyền lập pháp” (Điều 69),
“Chính phủ thực hiện quyền hành pháp” (Điều 94) và “Toà án nhân dân thực hiện
quyền tư pháp” (Điều 102). Sự phân công rõ ràng về tính chất và phạm vi quyền
lực của mỗi loại cơ quan công quyền cũng là đòi hỏi việc thực hiện quyền lực
nhà nước phải có giới hạn.
Hiến pháp năm 2013 cũng
phản ánh tư duy đổi mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được khẳng định trong
Văn kiện của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Điều 2 của Hiến pháp có
khẳng định nguyên tắc “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực
hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Điều đó, có thể được hiểu là mỗi cơ quan trong
việc thực thi quyền lực nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau bằng các
quyền cụ thể do pháp luật quy định, đồng thời mỗi cơ quan đều có trách nhiệm
thực hiện đúng phạm vi quyền lực của mình, không xâm lấn, không lạm quyền.
Trong quá trình tổ chức
và hoạt động của các cơ quan, sự phân công, phối hợp, kiểm soát luôn luôn được
đặt trong nguyên tắc thống nhất quyền lực được quy định trong Hiến pháp năm
2013, do vậy ít nhiều có sự khác biệt nhất định với kiềm chế, đối trọng của
nguyên tắc phân chia quyền lực theo thuyết Tam quyền phân lập của các học giả
tư sản. Sự khác biệt đó, thể hiện ngay trong các quy định tiếp theo của Hiến
pháp năm 2013. Cụ thể, Điều 69 của Hiến pháp 2013 có quy định:
“Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”
Bằng việc quy định như
trên, một lần nữa Hiến pháp năm 2013 khẳng định, ở nhà nước Việt Nam không thực
hiện phân quyền mà sự tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước luôn tuân theo nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau nhưng
vẫn bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất.
Như vậy, Hiến pháp mới
được ban hành năm 2013 đã thể hiện rõ nội dung ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp được xác lập trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này tạo cơ
sở pháp lý cho cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ
máy nhà nước.
Phù hợp xu thế phát
triển của thời đại
Thực tiễn cho thấy chỉ
trên cơ sở phân định một cách đúng đắn, hợp lý, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp để các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn
ý nguyện, quyền lực của nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo
luật thì quyền lực nhà nước mới được kiểm soát có hiệu quả. Xuất phát từ mục
đích đó, Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan
trong bộ máy nhà nước. Đó là một chương riêng về các thiết chế hiến định độc
lập gồm ba cơ quan mới được thành lập: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử quốc
gia và Kiểm toán nhà nước. Ba cơ quan này đều do Quốc hội thành lập...
Vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước được Đảng và Nhà nước ta nhìn nhận như một nguyên tắc, một phương
thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bên cạnh nguyên tắc phân công,
phối hợp. Kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ một nguyên tắc nền tảng –
nguyên tắc xác định nguồn gốc của quyền lực nhà nước là “Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân”. Nhà nước không tự có quyền lực mà quyền lực của nhân
dân, được nhân dân ủy quyền, trao quyền cho Nhà nước thay mặt nhân dân thực
hiện. Cho nên, tất yếu quyền lực nhà nước phải được kiểm soát và là nhu cầu
khách quan từ phía nhân dân – chủ thể ủy quyền đối với Nhà nước là chủ thể được
ủy quyền thực thi quyền lực nhà nước.
Thực tiễn hiện nay, ở
nước ta, dường như đã và đang vận hành hai hệ thống hướng đến kiểm soát quyền
lực nhà nước. Thứ nhất, hệ thống tự kiểm soát của Nhà nước thông qua hoạt động
giám sát của các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), hoạt
động thanh tra nhà nước, hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động kiểm sát các
hoạt động tư pháp của viện kiểm sát các cấp, hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà
nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới. Thứ hai, sự kiểm tra, giám sát
của xã hội, thể hiện qua sự kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Nhà nước, hoạt
động giám sát của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, của các tổ chức
xã hội, của công dân, của các cơ quan báo chí; trong một chừng mực nào đó còn
có sự giám sát của cộng đồng quốc tế. Trong hoạt động thực tiễn của nhà nước ta
hiện nay, đã có những chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện. Chẳng hạn, như khung pháp lý cho kiểm soát nhà nước tiếp tục được xây
dựng, nghiên cứu, thiết kế nhất là trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 đã thông
qua và có hiệu lực thi hành; các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra được
chú trọng, tăng cường, kết quả của những hoạt động này ngày càng được Nhà nước
công khai rộng rãi cho nhân dân biết; việc xử lý các kết quả giám sát, kiểm
tra, thanh tra được triển khai dưới sự chỉ đạo sát sao của các chủ thể có thẩm
quyền cao nhất.
Có thể thấy, quyền lực
và kiểm soát quyền lực luôn là vấn đề quan trọng của mọi quốc gia trong quá
trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã kịp thời có tư tưởng chỉ đạo việc sửa đổi
và thông qua bản Hiến pháp mới phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại./.
|