Về vấn đề này, Chuyên gia tư vấn như sau:
1. BLHS có quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Đều 139 và Điều 140, cụ thể như sau:
- Theo quy định tại Điều 139 thì người nào bằng thủ đoạn gian
dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
- Theo quy định tại Điều 140 thì người nào có một trong những
hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng
đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm…
Như vậy, nếu mẹ bạn không có thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài
sản của bà A và bà B, thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản; đồng thời cũng không có thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản của A và B, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp
pháp, thì cũng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
2. Đối với hành vi cho vay nặng lãi, theo quy định Điều 163, Bộ
luật hình sự thì người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao
nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì
bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến một năm. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi
bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.
Theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật dân sự thì lãi suất vay do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thoả thuận
về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi
suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với
thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Do vậy, phụ thuộc vào mức lãi suất mà Ngân
hàng nhà nước công bố ở thời điểm vay thì mới xác định được bà A và bà B có bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cho vay nặng lãi hay không.
./.
|