Về vấn đề trên, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư Thành
Phố Hà Nội tư vấn như sau:
Theo Điều 48 Bộ luật lao động 2013 quy định: “Khi hợp
đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều
36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp
thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi
năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng
thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi
thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật
bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ
cấp thôi việc.
Tiền lương để tính trợ
cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền
kề trước khi người lao động thôi việc”.
Như vậy, trong HĐLĐ giữa
công ty và bạn không ghi rõ các khoản phụ cấp nên căn cứ theo điều 48 bộ luật
lao động bạn chỉ được hưởng mức trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo
hợp đồng lao động là đúng pháp luật.
Do đó, các khoản lương
kinh doanh, phụ cấp nêu trên không ghi nhận cụ thể trên HĐ là bao nhiêu nhưng
được ghi trên các tờ trình, quyết định khi có phát sinh thì những khoản này
cũng không được tính là mức lương để tính trợ cấp thôi việc.
./.
(Nguyễn Thủy_ ghi) |