Về vấn đề của anh Huy, Luật sư Phạm Thanh Bình, Đoàn Luật sư
Thành Phố Hà Nội tư vấn như sau:
Dân phòng là tên gọi khác của lực lượng bảo vệ dân phố để nói về
lực lượng thường tham gia với công an phường trong việc giữ trật tự an toàn xã
hội ở các phường, thị trấn.
Theo Điều 2 Nghị định 38/2006/NĐ-CP ngày 17/04/2006 của Chính
phủ quy định về vị trí, chức năng của bảo vệ dân phố:
“1. Bảo vệ dân phố là
lực lượng quần chúng tự nguyện làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, được thành lập ở các phường, thị trấn (sau
đây gọi chung là phường) nơi bố trí lực lượng công an chính quy, do ủy ban nhân
dân phường quyết định thành lập.
2. Bảo vệ dân phố có
trách nhiệm làm nòng cốt trong việc thực hiện phong trào quần chúng, bảo vệ an
ninh tổ quốc, thực hiện một số biện pháp công tác phòng ngừa đấu tranh chống
tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác theo quy định của
pháp luật, nhằm bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trên địa bàn".
Theo quy định tại Điều
6 Nghị định 38/2006/NĐ-CP ngày 17/4/2006, bảo vệ dân phố có những quyền hạn
sau:
“1. Bắt, tước hung khí
và áp giải người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, trốn thi hành án
phạt tù đến trụ sở công an phường theo quy định của pháp luật.
2. Yêu cầu chấm dứt
ngay hành vi vi phạm và báo cáo với Ủy ban nhân dân, công an phường để có biện
pháp xử lý theo quy định của pháp luật đối với những người đang có hành vi vi
phạm trật tự công cộng, trật tự xây dựng, trật tự an toàn giao thông, các vi
phạm quy định an toàn cháy nổ và những người vi phạm các quy định khác về trật
tự, an toàn xã hội.
3. Tham gia với lực
lượng công an hoặc lực lượng chức năng để truy bắt người phạm tội, người đang
bị truy nã, trốn thi hành án; kiểm tra tạm trú, tạm vắng; kiểm tra giấy chứng
minh nhân dân hoặc giấy tờ tuỳ thân khác của những người tạm trú, người có nghi
vấn đến địa bàn khu phố được phân công phụ trách”.
Ngoài ra, quyền hạn của
Bảo vệ dân phố còn được hướng dẫn chi tiết tại mục III Thông tư số
02/2007/TTLT-Bộ Công an-Bộ Lao động thương binh xã hội-Bộ tài chính ngày
1/3/2007 như sau:
“1. Bắt, tước hung khí
và áp giải người phạm pháp quả tang, người đang bị truy nã trốn thi hành án
phạt tù đến trụ sở Công an phường theo đúng quy định của pháp luật:
Bảo vệ dân phố chỉ được
bắt người khi xác định đúng người đó đang phạm pháp quả tang hoặc đang có lệnh
truy nã của cơ quan công an. Việc tước bỏ hung khí phải đi liền với việc bắt
đối tượng nếu thấy đối tượng có sử dụng hung khí và phải áp giải ngay đối tượng
đến công an phường để xử lý.
2. Yêu cầu chấm dứt
ngay hành vi vi phạm và báo cáo với Ủy ban nhân dân, công an phường để có biện
pháp xử lý theo quy định của pháp luật đối với những người đang có hành vi vi
phạm trật tự công cộng, trật tự xây dựng, trật tự an toàn giao thông, các vi
phạm quy định về an toàn cháy nổ và những người vi phạm các quy định khác về
trật tự an toàn xã hội.
Khi thực hiện quyền hạn
này, bảo vệ dân phố phải có sự phối hợp với các lực lượng chức năng như cảnh
sát giao thông, cảnh sát khu vực, cảnh sát trật tự, cảnh sát phòng cháy chữa
cháy, thanh tra giao thông công chính, thanh tra xây dựng, thanh tra y tế…
Trong trường hợp không
có các lực lượng trên, bảo vệ dân phố có quyền nhắc nhở, yêu cầu cá nhân, tổ
chức có vi phạm chấm dứt ngay hành vi vi phạm và kịp thời báo cáo cấp có thẩm
quyền có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Tham gia với lực
lượng Công an hoặc lực lượng chức năng để truy bắt người phạm tội, người đang
bị truy nã, trốn thi hành án; kiểm tra tạm trú, tạm vắng, kiểm tra chứng minh
nhân dân hoặc giấy tờ tùy thân khác của những người tạm trú, người có nghi vấn
đến địa bàn khu phố được phân công phụ trách.
3.1. Theo sự phân công
hướng dẫn của lực lượng công an hoặc lực lượng chức năng khác, bảo vệ dân phố
được tham gia truy bắt người phạm tội, người đang bị truy nã, người trốn thi
hành án hoặc kiểm tra tạm trú, tạm vắng, kiểm tra giấy chứng minh nhân dân,
giấy tờ tuỳ thân khác của người tạm trú, người có biểu hiện nghi vấn đến cư trú
trên địa bàn.
3.2. Nghiêm cấm bảo vệ
dân phố tự ý kiểm tra giấy tờ, hàng hóa, phương tiện hoặc vào nơi ở của công
dân để kiểm tra, kiểm soát trái quy định của pháp luật.
4. Ngoài các quyền theo
quy định tại Điều 6 của Nghị định, Bảo vệ dân phố còn được sử dụng vũ khí thô
sơ, công cụ hỗ trợ theo quy định tại Điểm 1 Điều 12 của Nghị định.
Khi sử dụng quyền này,
bảo vệ dân phố cần chú ý: Việc sử dụng vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ phải đảm
bảo an toàn, đúng mục đích theo quy định của pháp luật. Phải được phép khi mang
vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ theo người”.
Tóm lại, lực lượng bảo
vệ dân phố chỉ có các quyền hạn theo như những quy định của Nghị định
38/2006/NĐ-CP ngày 17/4/2006 và Thông tư số 02/2007/TTLT-BCA-BLĐTBXH-BTC ngày
1/3/2007 vừa trích dẫn ở trên.
Đối chiếu với trường
hợp của bạn, bảo vệ dân phố chỉ được thu gom xe của bạn mang về UBND phường khi
phát hiện có vi phạm và phải có sự phối hợp với các lực lượng chức năng như
cảnh sát giao thông, cảnh sát khu vực, cảnh sát trật tự…
Nếu không có các lực
lượng trên, bảo vệ dân phố chỉ có quyền nhắc nhở, yêu cầu cá nhân, tổ chức có
vi phạm chấm dứt ngay hành vi vi phạm và kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền có
biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
(Luật sư, Thạc
sĩ Phạm Thanh Bình, Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội)
|