Về vấn đề này, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
trả lời như sau:
Theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP
ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
BHXH về BHTN đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 100/2012/NĐ-CP
ngày 21/11/2012 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thì người thất
nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện sau:
- Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi
bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo
đúng quy định của pháp luật.
- Đã đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm
thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương khi mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc
theo quy định của pháp luật.
- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày tính theo ngày làm việc kể từ ngày
đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm theo quy định, ngày thứ
nhất trong 15 ngày nêu trên là ngày ngay sau ngày người lao động đăng ký thất
nghiệp, tính theo ngày làm việc.
Theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP đã được sửa
đổi, bổ sung thì người đang đóng BHTN là người có tháng liền kề trước khi bị
mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã đóng
BHTN, tháng liền kề bao gồm cả thời gian sau: Người lao động có các tháng liền
kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
việc nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên
không hưởng tiền lương, tiền công tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH; người lao
động có các tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao
động hoặc hợp đồng làm việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật không hưởng tiền lương, tiền
công tháng tại đơn vị.
Theo quy định
tại Điều 34 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung và
các văn bản hướng dẫn thì trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày người lao động bị
mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, nếu người
lao động chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao
động phải trực tiếp đến Trung tâm Giới thiệu việc làm nơi đã làm việc trước khi
bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc để đăng
ký thất nghiệp.
Trường hợp người lao động có nhu cầu đăng ký thất nghiệp tại Trung tâm Giới
thiệu việc làm không phải là nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc thì khi đăng ký thất nghiệp
phải có xác nhận về việc chưa đăng ký thất nghiệp của Trung tâm Giới thiệu việc
làm nơi đã làm việc trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động
hoặc hợp đồng làm việc.
Theo quy định tại Điều 37 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP đã được sửa
đổi, bổ sung và các văn bản hướng dẫn thì hồ sơ hưởng BHTN bao gồm:
- Đơn đề nghị hưởng BHTN;
- Bản sao hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc hoặc quyết định thôi
việc hoặc xác nhận của đơn vị cuối cùng trước khi thất nghiệp về việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo đúng quy định
pháp luật.
Đồng thời, người lao động phải xuất trình Sổ BHXH có xác nhận của cơ
quan BHXH về việc đóng BHTN hoặc bản xác nhận của cơ quan BHXH về việc đóng
BHTN.
Như vậy, trường hợp ông Bảo giao kết hợp đồng lao động (kể cả
thời gian thử việc có hưởng lương) từ đủ 3 tháng trở lên với công ty B thì khi
chấm dứt hợp đồng lao động tại công ty B, ông Bảo không có tháng liền kề trước
khi mất việc làm đóng BHTN nên không đủ điều kiện hưởng BHTN.
Trường hợp ông Bảo giao kết hợp đồng lao động (kể cả thời gian thử việc có
hưởng lương) dưới 3 tháng với công ty B thì khi chấm dứt hợp đồng lao động tại
công ty B, thời điểm ngày 15/7/2014 đã quá thời hạn 3 tháng đăng ký thất
nghiệp, do đó, ông Bảo cũng không đủ điều kiện hưởng BHTN.
|