Như đã thông tin, căn cứ vào Khoản 2
Điều 13 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, nếu Việt kiều có quốc tịch
nước ngoài nhưng chưa thôi hoặc bị tước quốc tịch Việt Nam thì họ vẫn
mang quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, họ phải liên hệ với cơ quan đại diện
ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài để đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam
trước ngày 1/7/2014. Nếu đến hết ngày 01/7/2014 vẫn không đăng ký thì mất quốc tịch Việt Nam.
Như vậy, thủ tục đăng ký giữ quốc tịch
Việt Nam chỉ thực hiện ở cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Theo
Điều 19 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Quốc tịch Việt Nam, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có thẩm
quyền thực hiện việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam là cơ quan đại diện
Việt Nam thường trú hoặc kiêm nhiệm tại nước nơi người đăng ký giữ quốc
tịch đang có quốc tịch hoặc đang thường trú. Trường hợp Việt Nam chưa có
quan hệ ngoại giao hoặc chưa có cơ quan đại diện thường trú hoặc kiêm
nhiệm tại nước mà người đăng ký giữ quốc tịch đang thường trú thì việc
đăng ký giữ quốc tịch được thực hiện tại cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước thứ ba theo sự ủy quyền của Bộ Ngoại giao.
Điều 20 Nghị định 78 hướng dẫn trình
tự, thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam cụ thể như sau: Người đăng ký
giữ quốc tịch Việt Nam nộp tờ khai (theo mẫu) và bản sao giấy tờ chứng
minh quốc tịch Việt Nam của người đó cho cơ quan có thẩm quyền đăng ký
giữ quốc tịch Việt Nam (cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Khi
tiếp nhận tờ khai đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, cơ quan đăng ký ghi
vào sổ đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam và cấp cho người đăng ký giấy xác
nhận về việc người đó đã đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.
Trường hợp người đăng ký giữ quốc tịch
Việt Nam có giấy tờ chứng minh rõ người đó đang có quốc tịch Việt Nam
thì cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký giữ quốc tịch là người đó có quốc
tịch Việt Nam. Trường hợp người đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam không có
đủ giấy tờ chứng minh có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ chứng minh
không rõ thì cơ quan đăng ký phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên
quan tiến hành xác minh theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ
Công an để xác định người đó có quốc tịch Việt Nam hay không. Kết quả
xác minh cũng được ghi vào Sổ đăng ký giữ quốc tịch.
Số lượng kiều bào đăng ký giữ quốc
tịch quá “khiêm tốn” (chỉ đạt 0,09%) nên mặc dù nhấn mạnh đây là quy
định mới của Luật năm 2008 nhằm triển khai Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ
Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng đại
diện Bộ Công an cho rằng, các quy định trên không có tính khả thi cao và
phải gia hạn để bà con có thêm thời gian đăng ký. Bởi một thực tế phổ
biến là hầu hết bà con không có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam và
việc xác minh cũng khá bất cập.
Trước tình hình này, qua công tác tham
mưu quản lý nhà nước, Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Bộ
Tư pháp) Nguyễn Công Khanh không đồng tình với việc bỏ Khoản 2 Điều 13
vì như vậy là vô hiệu hóa quy định tiến bộ của Luật. Theo ông Khanh, chỉ
cần đơn giản hóa hơn thủ tục đăng ký bằng việc sửa đổi văn bản hướng
dẫn (ở đây là Nghị định 78) và tích cực vận động công dân Việt Nam tôn
vinh quốc tịch Việt Nam.
Nhiều hướng đề xuất sửa đổi Luật
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng phải
sửa đổi quy định của Luật với những đề xuất khác nhau như bãi bỏ Điều 13
hoặc vẫn quy định về đăng ký giữ quốc tịch nhưng vô thời hạn, tạo điều
kiện cho cả các thế hệ kiều bào về sau hoặc cho gia hạn từ 3 – 5 năm
nữa, sau thời hạn này thì mất quốc tịch Việt Nam.
Đại diện Bộ Ngoại giao cũng kiên trì
với phương án sửa Luật nhưng cũng tiên liệu là không đủ thời gian (từ
nay đến kỳ họp tới chỉ còn vài tháng) nên kiến nghị gia hạn để người dân
tiến hành các thủ tục liên quan, bà con có thêm thời gian suy nghĩ,
tiếp cận các thông tin được cung cấp. Mục tiêu lâu dài cần hướng tới,
theo Bộ Ngoại giao, vẫn là trong Luật Quốc tịch không còn quy định phải
đăng ký để giữ quốc tịch.
Đại diện Ủy ban Nhà nước về người Việt
Nam ở nước ngoài cho biết, khi Luật năm 2008 được ban hành, bà con rất
phấn khởi, nhưng rồi bà con thấy rằng đăng ký chỉ là đăng ký, không đồng
thời với việc có quốc tịch Việt Nam và cao hơn là có hộ chiếu Việt Nam,
trong khi do điều kiện sinh sống, bà con lại cần giấy tờ của nước sở
tại.
“Không cho đăng ký sau ngày 1/7/2014
tức là không cho phép đăng ký với công dân đi du học, lao động hoặc mới
sinh ra sau thời điểm này sao” - vị này thắc mắc và đề nghị: “Bà con cho
rằng mình có và mong muốn có quốc tịch Việt Nam thì bất cứ lúc nào cũng
cần cho phép đăng ký. Kéo dài thời hạn cũng chỉ là giải pháp trước mắt,
còn đúng hơn là phải bỏ quy định đăng ký. Chắc chắn phải sửa Luật, song
sửa như thế nào lại cần tính toán thêm”.
Quan điểm rõ ràng và nhất quán của Nhà
nước ta là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận quan
trọng, không thể tách rời và Hiến pháp sửa đổi năm 2013 cũng tuyên bố
mạnh mẽ “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”.
Vì vậy, trước nguy cơ mất quyền bảo hộ
với hàng triệu kiều bào, thiết nghĩ nếu Luật chưa phù hợp với tình hình
thực tế thì phải cân nhắc sửa đổi. Điều đó đòi hỏi các cơ quan chức
năng cần khẩn trương vào cuộc để sớm sửa đổi bất cập này theo thủ tục
rút gọn, là trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại một kỳ họp.
Điều 11. Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam
Một trong các giấy tờ sau đây có giá trị chứng minh người có quốc tịch Việt Nam:
1. Giấy khai sinh; trường hợp Giấy
khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy tờ
chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ;
2. Giấy chứng minh nhân dân;
3. Hộ chiếu Việt Nam;
4. Quyết định cho nhập quốc tịch Việt
Nam, Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, Quyết định công nhận
việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người nước ngoài, Quyết định cho
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
(Trích Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008)
|