Về vấn đề này, Bộ Tài chính trả lời cử tri
TP. Hồ Chí Minh như sau:
Chính sách ưu đãi thuế cũng được xây dựng để phù
hợp với diễn biến thực tế của nền kinh tế theo từng thời kỳ, từng giai đoạn,
đáp ứng yêu cầu của phát triển và hội nhập quốc tế, đảm bảo khuyến khích, thu
hút đầu tư có hiệu quả. Đồng thời, chính sách thuế cũng thường xuyên được đánh
giá, tổng kết để sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những bất cập và theo hướng
giảm nghĩa vụ để tạo thuận lợi và hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế.
Về việc ban hành thêm các loại phí
Tại Pháp lệnh Phí, lệ phí và các văn bản hướng
dẫn (Nghị định số 57/2002/NĐ-CP
ngày 3/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và lệ phí;
Nghị định số 24/2006/NĐ-CP
ngày 6/3/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP); các
Luật và các Nghị định chuyên ngành đã quy định cụ thể các khoản phí, lệ phí
được phép thu. Tại Pháp lệnh phí, lệ phí cũng quy định nghiêm cấm mọi tổ chức,
cá nhân tự đặt ra các loại phí, lệ phí.
Vì vậy, Bộ Tài chính chỉ hướng dẫn chi tiết việc
thu các khoản phí, lệ phí đã có tên trong Danh mục ban hành kèm theo Pháp lệnh
phí, lệ phí và các văn bản hướng dẫn; các Luật và các Nghị định chuyên ngành;
không ban hành thêm các khoản phí, lệ phí không có tên trong Danh mục.
Sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về
miễn, giảm thuế
Thời gian vừa qua, căn cứ tình hình thực tế của
kinh tế xã hội, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, trình Quốc hội ban hành nhiều
giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và hộ gia đình, cá nhân kinh doanh để tháo gỡ khó
khăn, ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, được áp dụng trong
năm 2014 và các năm tiếp theo, cụ thể:
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị
quyết 63/NQ-CP
ngày 25/8/2014 về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy
mạnh sự phát triển của doanh nghiệp.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 63/NQ-CP, Bộ Tài
chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 91/2014/NĐ-CP
ngày 1/10/2014, trong đó quy định cụ thể:
- Bổ sung quy định không tính thuế TNDN đối với
chênh lệch do đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa.
- Miễn thuế trong thời gian thực hiện hợp đồng và
tối đa không quá 3 năm kể từ ngày bắt đầu có doanh thu đối với thu nhập từ việc
thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; thu nhập từ bán
sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam được miễn thuế
tối đa không quá 5 năm kể từ ngày có doanh thu từ bán sản phẩm.
- Bổ sung quy định chuyển tiếp ưu đãi thuế TNDN
đối với doanh nghiệp dệt may đáp ứng tiêu chí xuất khẩu bị ngừng ưu đãi thuế do
thực hiện cam kết WTO.
- Bổ sung quy định trường hợp chưa có chứng từ
thanh toán không dùng tiền mặt do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng
thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
- Bổ sung quy định ô tô sử dụng kinh doanh vận
chuyển hàng hóa, hành khách, kinh doanh du lịch, khách sạn; ô tô dùng để làm
mẫu và lái thử cho kinh doanh ô tô có trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng thì số thuế
GTGT đầu vào tương ứng với phần trị giá vượt trên 1,6 tỷ đồng vẫn được khấu trừ
thuế GTGT.
- Bổ sung quy định không tính thuế TNCN đối với
khoản lợi ích nhận được là nhà ở do doanh nghiệp xây dựng cho công nhân làm
việc trong các khu kinh tế, khu công nghiệp.
Đồng thời, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình
Quốc hội thông qua Luật số 71/2014/QH13
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế, trong đó:
Về thuế TNDN: Bổ sung vào lĩnh vực ưu
đãi thuế TNDN đối với một số lĩnh vực như: bổ sung vào diện miễn thuế TNDN đối
với thu nhập từ hoạt động chế biến nông sản, thủy sản của hợp tác xã và của
doanh nghiệp tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bổ
sung vào diện áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập từ hoạt động chế biến nông
sản, thủy sản của hợp tác xã và của doanh nghiệp tại địa bàn khó khăn; bổ sung
vào diện áp dụng thuế suất 15% đối với thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản ở địa bàn không
thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn; bổ
sung vào diện áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm giảm 50% số
thuế TNDN phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với thu nhập của doanh nghiệp từ
thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển và dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư tối thiểu
12.000 tỷ đồng và phạm vi tác động sâu, rộng tới kinh tế - xã hội. Trường hợp
các dự án đầu tư này đáp ứng thêm điều kiện về doanh thu hoặc số lao động hoặc
đầu tư thuộc lĩnh vực hạ tầng, kinh tế kỹ thuật theo quy định của Luật thì được
xem xét kéo dài thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi thêm 15 năm.
Bãi bỏ quy định khống chế khoản chi quảng cáo,
tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ
tiếp thị, chi phí liên quan trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh.
Bổ sung nguyên tắc về thu thuế TNDN đối với
trường hợp doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Bổ sung quy định nguyên tắc áp dụng ưu đãi khi
pháp luật về thuế TNDN có sự thay đổi.
Về thuế TNCN: Bổ sung quy định miễn thuế
TNCN đối với: thu nhập từ tiền lương, tiền công của thuyền viên là người Việt
Nam làm việc cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải
quốc tế; thu nhập của cá nhân là chủ tàu, cá nhân có quyền sử dụng tàu và cá
nhân làm việc trên tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục
vụ hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản xa bờ.
Áp dụng một phương pháp tính thuế đối với chuyển
nhượng bất động sản và chuyển nhượng chứng khoán, theo đó quy định cá nhân
chuyển nhượng bất động sản nộp thuế 2% trên giá bán từng lần chuyển nhượng và
cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế 0,1% trên giá bán chứng khoán từng
lần chuyển nhượng.
Bỏ thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng
trong casino để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Sửa đổi quy định về thuế đối với hộ, cá nhân kinh
doanh theo hướng đơn giản, theo đó cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu năm trên
100 triệu đồng thực hiện nộp thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu ổn định trong cả
năm để tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cải cách thủ tục hành
chính.
Về thuế GTGT: Chuyển nhóm mặt hàng phân
bón, thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn chăn nuôi cho vật nuôi khác, máy móc,
thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp từ đối tượng chịu thuế
GTGT với mức thuế suất 5% sang đối tượng không chịu thuế GTGT. Bổ sung vào diện
đối tượng không chịu thuế đối với tàu đánh bắt xa bờ.
Về thuế tài nguyên: Chuyển từ đối tượng
được miễn thuế sang đối tượng không chịu thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.
Về Luật Quản lý thuế: Bỏ Bảng kê hóa đơn
hàng hóa mua vào, bán ra trong Hồ sơ khai thuế nhằm đơn giản hồ sơ khai thuế
tháng, khai thuế quý.
Bãi bỏ mức tiền chậm nộp thuế 0,07%/ngày, theo đó
chỉ còn một mức tiền chậm nộp là 0,05%/ ngày trên số tiền chậm nộp thuế trong
thời gian chậm nộp tiền thuế.
Không áp dụng các biện pháp cưỡng chế và không
tính tiền chậm nộp đối với số tiền nợ thuế phát sinh trong trường hợp người nộp
thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước
nhưng chưa được thanh toán; đồng thời bãi bỏ quy định về gia hạn nộp thuế với
với trường hợp chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã được ghi
trong dự toán NSNN.
Bổ sung quy định quy đổi tỷ giá trong việc tính
thuế và nộp ngân sách theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh.
Ngày 26/11/2014 Quốc hội đã thông qua Luật số
71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Luật về thuế (có hiệu lực từ
1/1/2015), trong đó tại khoản 6, khoản 7 Điều 2 có quy định thuế TNCN đối với
thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản được áp dụng một mức thuế suất là 2%
trên giá bán từng lần chuyển nhượng.
|