Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý
kiến như sau:
Theo Điều 25, Luật Đấu thầu quy định tự thực hiện
được áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ
chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và
kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Tại Điều 61 và khoản 1, Điều 62, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP
quy định điều kiện để áp dụng hình thức tự thực hiện bao gồm:
- Có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành
nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu của gói thầu;
- Phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự
thực hiện về khả năng huy động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về
tiến độ thực hiện gói thầu;
- Đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được
chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên
hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng.
Trường hợp gói thầu do đơn vị hạch toán phụ thuộc
thực hiện thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo hợp đồng. Trường
hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ
thuộc thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao
việc cho một đơn vị thuộc mình thực hiện.
Theo đó, việc áp dụng hình thức tự thực hiện phải
tuân thủ các quy định nêu trên. Trường hợp Công ty A (là đơn vị trực thuộc Công
ty mẹ - Tập đoàn kinh tế nhà nước và có 100% vốn của Công ty mẹ) được giao làm
chủ đầu tư dự án thì việc Công ty A giao cho Công ty B (công ty tư vấn quản lý
dự án, có 100% vốn của Công ty mẹ và hạch toán phụ thuộc Công ty mẹ) thực hiện
gói thầu tư vấn giám sát theo hình thức tự thực hiện là không phù hợp với quy
định đã nêu.
Trong trường hợp này, nếu gói thầu tư vấn không
thuộc trường hợp áp dụng chỉ định thầu theo quy định tại Điều 22 Luật Đấu thầu
số 43/2013/QH13 thì phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi.
|