Ông Vũ Ngọc Nam hỏi: Tại điểm c, khoản 1, Điều 62 Luật Đấu thầu 43/2013/QH13 quy định, đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn đơn giản; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ phải áp dụng hợp đồng trọn gói. Vậy, có thể hiểu đây là gói thầu tư vấn quy mô nhỏ không, hay toàn bộ gói thầu tư vấn?
Trường hợp đối với gói thầu tư vấn khảo sát, thiết kế xây dựng, chi phí khảo sát tính theo đơn giá, chi phí thiết kế tính theo tỷ lệ %. Vậy khi để hợp đồng trọn gói thì chi phí thiết kế phải xác định như thế nào? (Vì chi phí thiết kế tính bằng hệ số % x chi phí xây lắp, mà chi phí xây lắp tại thời điểm ký hợp đồng tư vấn thiết kế chưa chính xác).
|
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau:
Theo điểm c, khoản 1, Điều 62 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định đối
với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn đơn giản; gói thầu mua
sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ phải áp dụng hợp đồng trọn gói.
Theo đó, hợp đồng trọn gói được áp dụng với gói thầu dịch vụ tư vấn đơn
giản mà không áp dụng đối với gói thầu dịch vụ tư vấn quy mô nhỏ vì pháp luật
không có quy định về gói thầu dịch vụ tư vấn quy mô nhỏ.
Việc tính toán giá gói thầu phải tính toán đầy đủ toàn bộ chi phí để thực hiện
gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, phí, lệ phí và thuế theo quy định tại điểm a,
khoản 2, Điều 35 của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13. Bên mời thầu phải căn cứ
vào các quy định hiện hành để tính toán số lượng chuyên gia cần thiết cho gói
thầu, thời gian làm việc theo tháng, tuần, ngày, giờ và các khoản thù lao và
ngoài thù lao cho chuyên gia làm cơ sở để xác định giá gói thầu.
|