Điều
126 Luật nhà ở quy định: Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có
quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại
Việt Nam: Người có quốc tịch Việt Nam (điểm a khoản 1); Người gốc Việt Nam
thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư;
người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ
năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại
Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước
(điểm b khoản 1). Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại
điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn
thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở
hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các
thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng quy định
tại Điều 126 của Luật nhà ở có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam (Điều 121 Luật Đất đai). Trường hợp người được thừa
kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1
Điều 121 của Luật này thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất; nếu không thuộc
đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được hưởng giá trị của
phần thừa kế đó (Điều 113 Luật Đất đai).
Anh
có thể đối chiếu với quy định trên xem mình được hưởng thừa kế nhà và quyền sử
dụng đất hay hưởng giá trị của phần thừa kế đó.
|