Thiếu cơ sở pháp lý?
Viện dẫn Điều 163 của Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định:“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản” và quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2010, giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả
nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”,
TANDTC đã coi các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe
mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có giá”.
Theo đó, hướng dẫn Tòa án các cấp, nếu có yêu cầu Toà án giải quyết buộc
người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Toà án không thụ lý giải
quyết.
Trước quan điểm này, một số luật sư cho
rằng CV 141 của TANDTC có nhiều điểm trái pháp luật, không khoa học và
không phục vụ cộng đồng, chưa giải quyết hết tranh chấp trong nhân dân.
Thế nào là “giấy tờ có giá”?
Luật sư Quách Tú Mẫn - Cty Luật hợp
danh Danh & Cộng sự, phân tích: “Thứ nhất, CV 141 nhận định “các
giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy
đăng ký xe ô tô…)” không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163
của BLDS năm 2005 và điểm 8 Điều 6 Luật NHNNVN năm 2010 làm người đọc
hết sức phân vân, không rõ theo quy định BLDS 2005, các giấy này là gì,
có phải là tài sản hay không?. Cơ sở pháp lý về “giấy tờ có giá” của CV
141 cũng không thuyết phục. Phạm vi điều chỉnh Luật NHNNVN chỉ giới hạn
trong “quy định về tổ chức và hoạt động của NHNNVN” và không bao quát,
điều chỉnh hết mọi quan hệ dân sự.
“Giấy tờ có giá” trong quan hệ dân sự
phải được hiểu là giấy tờ có thể trị giá bằng tiền theo Điều 321 BLDS
“Tiền, giấy tờ trị giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Có ý
kiến coi giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản là một phần của quyền tài
sản. Giấy chứng nhận bị chiếm hữu sẽ hạn chế quyền tài sản của chủ sở
hữu.
Vật trong Điều 163 không được luật dân
sự định nghĩa chi tiết nên phải hiểu theo nghĩa thông thường. Tờ giấy là
vật, “Giấy” chứng nhận quyền sở hữu tài sản (CNQSHTS) cũng là vật. Căn
cứ vào khoản 2 Điều 179 BLDS, giấy CNQSHTS được phân loại là vật đặc
định. Với cách hiểu này các loại giấy chứng nhận khác, chứng minh nhân
dân, bằng cấp, chứng chỉ nghề nghiệp đều là vật, tài sản.
Trái nguyên tắc “bất khả thụ lý”
Về thẩm quyền giải quyết yêu cầu trả
lại giấy CNQSHTS, CV 141 cho rằng yêu cầu trả lại giấy CNQSHTS là“yêu
cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” không dựa
trên một cơ sở pháp lý nào ngoài lý do rất mơ hồ “các giấy CNQSHTS không
phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của BLDS năm 2005.
Lập luận này không thuyết phục, sai quy
tắc logic, thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án không tùy
thuộc vào giấy tờ có là “giấy tờ có giá” hay không?. Ngược lại, nếu đã
công nhận các giấy CNQSHTS là một loại tài sản quy định tại Điều 163 của
BLDS năm 2005, tất nhiên phải thừa nhận Tòa án có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu trả lại giấy theo khoản 2 Điều 25 BLTTDS “tranh chấp về quyền
sở hữu tài sản”…
CV 141 còn trái nguyên tắc “bất khả thụ
lý”, một nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự các nước tiên tiến trên
thế giới. Theo đó, Tòa án không thể viện dẫn bất kỳ lý do gì để từ chối
thụ lý hoặc xét xử yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự của người dân. Các
nhà làm luật Việt Nam cũng đồng ý với nguyên tắc trên nên đã thông qua
Điều 4 BLTTDS quy định người dân có quyền yêu cầu Tòa án “bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp” của mình.
Cụ thể hóa nguyên tắc này, tại Điều 25
BLTTDS, ngoài 8 khoản đầu quy định chi tiết thẩm quyền giải quyết của
Tòa án, các nhà làm luật đã thêm khoản thứ 9 “các tranh chấp khác về dân
sự mà pháp luật có quy định”.
Một cách dễ hiểu, Tòa án có thẩm quyền
và nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp đối với mọi quan hệ, giao dịch
dân sự đã được ghi nhận trong một quy định pháp luật bất kỳ. Trong
trường hợp nêu trên, hành vi chiếm hữu Giấy CNQSHTS của người khác đã
làm phát sinh nghĩa vụ dân sự phải giao trả lại cho chủ. Quan hệ dân sự
này được ghi nhận tại Điều 280, 281 BLDS năm 2005. Như vậy, Giấy CNQSHTS
có là tài sản hay không thì người dân cũng có quyền yêu cầu và Tòa án
có nghĩa vụ và thẩm quyền giải quyết tranh chấp này, buộc giao trả giấy
tờ cho chủ… |