Giữ bí mật thông tin của người tố cáo
Luật Tố
cáo gồm 8 Chương và 50 Điều, quy định một số nội dung mới về công khai
nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm tố cáo. Trong đó đáng
chú ý, Luật mới vẫn duy trì hai hình thức là tố cáo trực tiếp và tố cáo
bằng đơn. Luật cũng chỉ chấp nhận xem xét, giải quyết đối với các tố cáo
rõ họ, tên, địa chỉ của người tố cáo. Đồng thời Luật mới bổ sung quy
định đơn tố cáo phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo, trường
hợp tố cáo trực tiếp thì người tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản
ghi nội dung tố cáo.
Luật Tố
cáo cũng quy định trách nhiệm bảo vệ người tố cáo thuộc về người giải
quyết tố cáo. Cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận, giải quyết tố cáo có
trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết hoặc yêu cầu các cơ quan
liên quan (như cơ quan quản lý người tố cáo tại nơi công tác, UBND địa
phương nơi người tố cáo cư trú hoặc cơ quan công an có thẩm quyền) áp
dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo.
Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận thông tin về người tố cáo trong
quá trình giải quyết tố cáo đều có trách nhiệm bảo đảm giữ bí mật các
thông tin này dù người tố cáo có yêu cầu hay không. Trường hợp nhận được
thông tin người tố cáo bị đe dọa, trả thù hay trù dập thì người giải
quyết tố cáo phải chủ động hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ
quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ
người tố cáo.
Được từ chối tiếp người dân nếu vụ việc đã được xem xét
Đây là
điểm mới của Luật khiếu nại. Theo đó, cán bộ tiếp công dân có quyền từ
chối tiếp trong trường hợp người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh về vụ việc đã được kiểm tra xem xét và đã có quyết định hoặc kết
luận giải quyết của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và
đã được trả lời đầy đủ…
Luật Khiếu
nại cũng quy định rõ về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, trong đó
trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc
khiếu nại. Trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về
thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại
thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã
thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực
hiện việc khiếu nại.
Hợp nhất văn bản: giúp pháp luật minh bạch, dễ tiếp cận
Pháp lệnh
Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) quy định về việc hợp nhất văn
bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở TƯ ban hành, thẩm
quyền, trách nhiệm của các cơ quan trong việc hợp nhất văn bản, trình
tự, kỹ thuật hợp nhất văn bản nhằm góp phần bảo đảm cho hệ thống pháp
luật đơn giản, rõ ràng, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật.
Pháp lệnh
hợp nhất văn bản QPPL gồm 4 Chương, 20 Điều, quy định rõ nguyên tắc:
“Chỉ hợp nhất văn bản do cùng một cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành”, “Việc hợp nhất văn bản không được làm thay đổi nội dung và hiệu
lực của văn bản được hợp nhất” và phải “Tuân thủ trình tự, kỹ thuật hợp
nhất văn bản”. |