Pháp
luật với vị trí và vai trò vốn có của nó là một công cụ chủ yếu để quản
lý nhà nước và xã hội; các quy định của pháp luật được đặt ra là để
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một định hướng nhất định; thông qua
việc đặt ra, thực hiện và áp dụng các quy định của pháp luật sẽ tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi, quyền và nghĩa vụ của từng chủ
thể pháp luật; do đó, việc hiểu đúng, đầy đủ và chính xác các quy định
của pháp luật theo nội dung và ý nghĩa vốn có của nó để thực thi và áp
dụng pháp luật một cách nghiêm minh và có hiệu quả là một yêu cầu khách
quan và cần thiết của bất cứ hệ thống pháp luật nào. Chính vì vậy, việc
giải thích pháp luật không thể “buông lỏng”, tức là không thể mặc nhiên
thừa nhận hoặc công nhận kết quả của mọi hoạt động giải thích pháp luật
đều là pháp luật, được thực thi và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Bởi
nếu bất cứ kết quả giải thích pháp luật nào cũng đều được công nhận thì
chắc chắn mỗi chủ thể sẽ giải thích một kiểu, theo nhận thức, trình độ
chuyên môn, vị trí, địa vị xã hội và lợi ích của mình. Điều này sẽ làm
cho hệ thống pháp luật rối tung và trật tự xã hội bị đảo lộn, không thể
quản lý.
Căn cứ vào cách thức và căn cứ phân loại, giải thích pháp luật được chia thành các loại cơ bản như sau:
-
Nếu căn cứ vào tính chất của chủ thể tiến hành giải thích, giải thích
pháp luật được phân loại thành giải thích của cơ quan lập pháp (Quốc
hội); giải thích của cơ quan hành pháp (Chính phủ); giải thích của cơ
quan tư pháp (Tòa án) và giải thích của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
như: giải thích của các luật sư, thẩm phán, nhà khoa học....
-
Nếu căn cứ vào hình thức pháp luật, giải thích pháp luật được phân
thành giải thích tập quán pháp; giải thích tiền lệ pháp và giải thích
văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Trong giải thích VBQPPL, chúng còn
có thể chia thành: giải thích Hiến pháp, giải thích luật, giải thích
pháp lệnh....
-
Nếu căn cứ vào giá trị pháp lý của nội dung giải thích, giải thích pháp
luật được phân thành giải thích chính thức và giải thích không chính
thức Trường hợp giải thích không chính thức thì nội dung giải thích
không mang tính bắt buộc thực hiện đối với các bên liên quan; nó chỉ có
giá trị tham khảo và thường được tiến hành bởi tất cả các chủ thể pháp
luật như các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học.... Giải thức chính
thức thường được thực hiện bởi các chủ thể được nhà nước trao quyền;
được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; nội
dung giải thích thường được thể hiện bằng văn bản, có giá trị pháp lý
như các quy định pháp luật cần giải thích. Giải thích chính thức lại
được chia làm hai loại là giải thích chính thức mang tính quy phạm và
giải thích chính thức cho những vụ việc cụ thể (giải thích tình huống).
Vai trò của giải thích pháp luật
Trong
hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đặc biệt trong nhà nước
pháp quyền và xã hội công dân thì pháp luật ngày càng có vị trí, vai trò
quan trọng. Giải thích pháp luật với nhiệm vụ làm sáng tỏ hơn các quy
phạm pháp luật, kết quả của việc giải thích pháp luật có giá trị như
pháp luật, nên nó rất cần thiết và có vai trò vô cùng quan trọng trong
nhận thức - thực thi - áp dụng pháp luật. Có thể khẳng định rằng, giải
thích pháp luật là một nhu cầu tất yếu khách quan đối với mọi xã hội và
mọi hệ thống pháp luật. Bởi lẽ, về lý thuyết, nhu cầu này chỉ không phát
sinh khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn thiện tuyệt đối và
nhận thức pháp luật của người dân ở trình độ cao. Tuy nhiên, pháp luật
là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Nó được xây dựng trên nền tảng
là cơ sở hạ tầng
và để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống thực
tế. Đồng thời, trình độ nhận thức của mỗi con người là khác nhau. Chính
vì vậy, trong điều kiện Việt Nam, với thực trạng của hệ thống pháp luật
và ý thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế thì nhu cầu giải
thích pháp luật trở nên thật sự cần thiết và có vai trò quan trọng. Vai
trò của giải thích pháp luật được thể hiện từ sự nhận thức đến quá trình
thực hiện pháp luật của người dân cũng như của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Như
vậy, giải thích pháp luật không những có vị trí, vai trò quan trọng
trong việc nâng cao ý thức và hiểu biết pháp luật của người dân mà còn
quyết định tính đúng đắn và tính khả thi của văn bản áp dụng pháp luật.
Thông qua việc làm rõ nội dung, tư tưởng các quy phạm pháp luật, giải
thích pháp luật giúp cho các chủ thể pháp luật có sự nhận thức thống
nhất và đúng đắn về pháp luật, giúp cho pháp luật tăng cường tính nghiêm
minh, hiệu lực và hiệu quả trong quá trình thi hành và áp dụng; qua đó,
tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
Các quy định hiện hành về giải thích pháp luật
Hiến
pháp 1959 (khoản 3 Điều 53) là VBQPPL đầu tiên quy định về giải thích
pháp luật với tư cách là một thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH). Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật
Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh
quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của
các Toà nhân dân địa phương; Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là các văn bản thể chế hoá quy định này.
Tuy nhiên, các văn bản này mới chỉ quy định nguyên tắc mang tính định
hướng mà chưa quy định các nội dung cụ thể và do đó việc giải thích pháp
luật chưa được tiến hành trên thực tế.
Trên
cơ sở kế thừa và phát triển quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980, Hiến pháp 1992 và các VBQPPL quy định về giải thích pháp luật như:
Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Toà án nhân
dân; Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; Luật Ban hành VBQPPL… hoạt
động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được quy định với những nội
dung cơ bản như sau:
Chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo
quy định của khoản 1 Điều 15 Nghị quyết số 26/2004/QH11 của Quốc hội
ngày 15/6/2004 về Quy chế hoạt động của UBTVQH thay thế cho Quy chế hoạt
động của UBTVQH 1993, các chủ thể sau đây có thẩm quyền kiến nghị
UBTVQH giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: UBTVQH; Chủ tịch nước;
Chính phủ; Tòa án nhân dân tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Hội
đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận.
Chủ thể có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo
quy định của Điều 90 Hiến pháp 1992, cơ quan thường trực của Quốc hội -
UBTVQH - là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh. Giúp ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền này có
Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Ban Công
tác lập pháp.
Hình thức thể hiện của văn bản giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Khoản
2 Điều 21 Luật Ban hành VBQPPL và Khoản 3 Điều 15 Nghị quyết số
26/2004/QH11 của Quốc hội ngày 15/6/2004 quy định: “UBTVQH thảo luận và
thông qua Nghị quyết về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Nghị
quyết về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng”…
Quy trình, thủ tục trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Theo
quy định của Luật Ban hành VBQPPL và Quy chế hoạt động của UBTVQH năm
2004 thì quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích Hiến pháp, luật,
được thực hiện giống như quy trình, thủ tục thông qua luật. Tuy nhiên,
với tính chất, nội dung và phạm vi nghị quyết của UBTVQH nên quy trình,
thủ tục cũng được đơn giản hoá hơn. Cụ thể, gồm các bước như sau:
Đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Khi
phát sinh nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các chủ thể có
thẩm quyền đề nghị UBTVQH giải thích. Trong văn bản đề nghị phải thể
hiện được các nội dung cơ bản như sự cần thiết, nội dung quy định cần
giải thích, các cách hiểu khác nhau về quy định… Trong thời hạn ba mươi
ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh, điều ước quốc tế, UBTVQH có trách nhiệm xem xét và thông báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân đã đề nghị biết ý kiến của UBTVQH về vấn đề
này.
Soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Sau
khi đề nghị giải thích được UBTVQH chấp nhận thì Ban soạn thảo được
thành lập để chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích. Thông thường, chủ
thể giải thích sẽ tự thành lập Ban soạn thảo. UBTVQH thành lập Ban soạn
thảo trong trường hợp chủ thể đề nghị giải thích là: UBTVQH, Hội đồng
Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội hoặc nội dung giải
thích có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Căn
cứ vào tính chất và nội dung của việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh mà UBTVQH giao cho Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội để soạn
thảo dự thảo nghị quyết. Dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh sau khi đã soạn thảo sẽ được trình UBTVQH để tiến hành thẩm
tra. Thời hạn gửi dự thảo nghị quyết để thẩm tra chậm nhất là hai mươi
ngày trước ngày bắt đầu phiên họp UBTVQH.
Thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích:
Trên
cơ sở dự thảo nghị quyết đã được cơ quan soạn thảo chuẩn bị, UBTVQH căn
cứ vào nội dung và tính chất của nội dung cần giải thích, giao cho Hội
đồng Dân tộc, các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra.
Như
vậy, chủ thể thực hiện việc thẩm tra là Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, UBTVQH tự mình hoặc
theo đề nghị của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc,
Uỷ ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định
thành lập Uỷ ban lâm thời của Quốc hội để thẩm tra dự thảo nghị quyết
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh (Điều 26 Quy chế 2004). Tuy nhiên,
từ khi thiết lập quy định này, chưa có lần nào Quốc hội thành lập Uỷ
ban lâm thời để thẩm tra về dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh. Ngay cả việc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra dự
án luật cũng thực hiện chỉ được một vài lần.
Về
phạm vi thẩm tra, theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, cơ quan thẩm
tra phải tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự thảo nghị quyết,
nhưng tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
+ Sự cần thiết ban hành nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;
+
Sự phù hợp của nội dung dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo và tính thống nhất của văn
bản với hệ thống pháp luật;
+ Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
+ Tính khả thi của dự thảo.
Việc
thẩm tra dự thảo nghị quyết có thể được tiến hành một lần hoặc nhiều
lần. Đối với dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
được UBTVQH xem xét thông qua trong hai phiên họp thì dự thảo nghị quyết
phải được cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra sơ bộ lần đầu. Đối với dự
thảo nghị quyết trình UBTVQH xem xét, quyết định thông qua tại phiên
họp thứ hai hoặc trong trường hợp dự thảo được UBTVQH quyết định xem xét
thông qua tại một phiên họp thì phải được cơ quan thẩm tra tiến hành
thẩm tra chính thức. Luật Ban hành VBQPPL quy định: “Khi thẩm tra chính
thức, cơ quan thẩm tra phải tiến hành phiên họp toàn thể. Trong trường
hợp dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết được giao cho nhiều
cơ quan phối hợp thẩm tra, thì cơ quan được giao chủ trì thẩm tra có
trách nhiệm tổ chức phiên họp liên tịch để tiến hành thẩm tra. Báo cáo
thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên cơ quan thẩm tra
Thảo luận tại phiên họp và xem xét thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
Thông
thường, UBTVQH quyết định xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết tại hai
phiên họp. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo nghị
quyết, UBTVQH có thể xem xét thông qua tại một phiên họp. Về cơ bản,
trình tự, thủ tục thông qua tại một phiên họp và hai phiên họp là tương
tự nhau. Tại phiên họp thứ nhất, dự thảo nghị quyết sẽ được biểu quyết
thông qua các nội dung cơ bản như phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
và những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Sau đó, trên cơ sở các ý
kiến đóng góp, trong thời gian giữa hai phiên họp, UBTVQH chỉ đạo cơ
quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên cứu tiếp thu và
chỉnh lý dự thảo nghị quyết để trình UBTVQH thông qua tại kỳ họp thứ
hai. Tại phiên họp thứ hai, sau khi, tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo nghị
quyết được đọc trước toàn thể phiên họp UBTVQH. Các thành viên UBTVQH
tiến hành biểu quyết thông qua một số nội dung còn ý kiến khác nhau và
biểu quyết toàn văn dự thảo nghị quyết. Nghị quyết giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh được thông qua khi có quá nửa thành viên UBTVQH biểu
quyết tán thành, trừ trường hợp Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại được
quy định tại Điều 39 và Điều 103 Hiến pháp 1992. Theo các quy định này,
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nghị quyết được UBTVQH thông qua, Chủ
tịch nước có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại những nội dung mà Chủ
tịch nước chưa đồng ý. Nếu nghị quyết đó vẫn được UBTVQH biểu quyết tán
thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc
hội quyết định tại kỳ họp gần nhất (khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 1992).
Công bố nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Pháp
luật hiện hành không quy định cụ thể về việc công bố nghị quyết giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH. Nhưng theo quy định chung,
sau khi nghị quyết được Chủ tịch Quốc hội ký sẽ được gửi tới Chủ tịch
nước để ký lệnh công bố. Thời hạn này là 15 ngày, kể từ ngày nghị quyết
được thông qua.
Đánh giá về cơ sở pháp lý của giải thích pháp luật
-
Thứ nhất, hệ thống VBQPPL hiện hành mới chỉ quy định về giải thích Hiến
pháp, luật, pháp lệnh mà chưa có các quy định về giải thích pháp luật.
Đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận lại giá trị của Điều 53 Hiến pháp
1959, tức là bên cạnh việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì
giải thích các văn bản quy phạm pháp cũng cần phải được quy định. Chỉ có
như vậy, mới khắc phục được tình trạng đánh đồng hoạt động quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ với việc giải thích pháp
luật.
-
Thứ hai, giải thích Hiến pháp chưa được thiết lập theo một cơ chế riêng
so với giải thích các VBQPPL khác. Theo quy định hiện hành, giải thích
Hiến pháp được thực hiện giống hoạt động giải thích luật, pháp lệnh.
Điều này chưa thể hiện được vị trí và vai trò của Hiến pháp, đặc biệt
trong nhà nước pháp quyền.
-
Thứ ba, UBTVQH là chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh là chưa hợp lý, đặc biệt về giải thích Hiến pháp và giải
thích luật.
-
Thứ tư, quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích còn chưa cụ thể,
thiếu chi tiết. Cụ thể là: i) Quy trình, thủ tục của việc giải thích
Hiến pháp chưa được Quốc hội quy định chi tiết theo Luật Ban hành
VBQPPL; ii) Chưa phân biệt quy trình, thủ tục giữa việc UBTVQH tự mình
thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và việc UBTVQH thực
hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo đề nghị của các
chủ thể có thẩm quyền khác; iii) Quy trình tiếp nhận và xử lý đề nghị
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa được quy định. Các nội dung
cơ bản và yêu cầu của đề nghị giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh chưa
được quy định cụ thể làm căn cứ cho hoạt động xử lý đề nghị; iv) Việc
phân công soạn thảo dự thảo nghị quyết trong trường hợp đại biểu Quốc
hội đề nghị giải thích chưa được làm rõ; v) Quy trình, thủ tục trong
hoạt động thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích chưa được quy định; vi)
Việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến nội dung
giải thích chưa được quy định cụ thể; vii) Chưa xác định thẩm quyền của
Chủ tịch nước ký công bố đối với nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL; viii) Các thời hạn
trong từng giai đoạn chưa được xác định.
Một số kiến nghị cụ thể nâng cao hiệu quả giải thích pháp luật
Trên
cơ sở lý luận, thực tiễn của việc giải thích pháp luật và định hướng,
quan điểm hoàn thiện nêu trên, việc giải thích pháp luật ở Việt Nam
trong thời gian tới cần thực hiện những nội dung sau đây:
Thứ
nhất, cần sớm nghiên cứu quy định về việc giải thích pháp luật thay vì
chỉ quy định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp luật như hiện nay để
khắc phục tình trạng “bỏ ngỏ” việc giải thích các VBQPPL khác hay đánh
đồng giữa việc Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các văn
bản quy phạm pháp luật với việc giải thích pháp luật.
Thứ
hai, cần thiết lập một cơ chế riêng về giải thích Hiến pháp cho phù hợp
với vị trí, vai trò của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền và phù hợp
với điều kiện Việt Nam. Theo đó, Quốc hội phải là cơ quan (chủ thể) duy
nhất có thẩm quyền giải thích Hiến pháp với tư cách là một chủ thể lập
hiến.
Việc
giao Quốc hội giải thích Hiến pháp cũng hoàn toàn phù hợp với truyền
thống và nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hơn nữa, nó còn bảo
đảm tính thứ bậc pháp lý trong hệ thống VBQPPL; bảo đảm tính tối cao
của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền.
Thứ
ba, cần có sự phân định về thẩm quyền giữa các chủ thể trong việc giải
thích pháp luật theo hướng trao một phần thẩm quyền giải thích pháp luật
cho hệ thống toà án. Bởi vì, tư pháp (theo nghĩa hẹp là hệ thống tòa
án) là việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng
trong nhân dân. Toà án là các cơ quan xét xử có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Mục đích cơ bản của
cơ quan tư pháp là bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên (cả nhà nước và
công dân). Nguyên tắc hoạt động là khách quan và khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Do vậy, nếu toà án giải
thích pháp luật sẽ bảo đảm tính khách quan hơn.
Thêm
vào đó, thực tế cho thấy, đa số các nhu cầu giải thích đều phát sinh và
gắn liền hữu cơ với một vụ việc cụ thể. Nói cách khác, đa số giải thích
pháp luật đều là giải thích vụ việc và gắn với việc giải quyết một
tranh chấp nhất định và theo phân công quyền lực nhà nước thì chính Toà
án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này.
Về
phạm vi thẩm quyền của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý của nội
dung giải thích: tất nhiên, khi chúng ta đã trao thẩm quyền giải thích
pháp luật cho Tòa án tức là đồng nghĩa với việc chúng ta phải công nhận
hình thức giải thích chính thức mang tính vụ việc bên cạnh hình thức
giải thích chính thức mang tính quy phạm hiện nay của UBTVQH. Đây cũng
chính là một trong các căn cứ để xác định phạm vi thẩm quyền giải thích
của Tòa án và hình thức, giá trị pháp lý của nội dung giải thích. Tức
là, trong quá trình tòa án giải quyết một vụ việc cụ thể thuộc thẩm
quyền mà phát sinh nhu cầu giải thích pháp luật để áp dụng thì Thẩm phán
được giao xét xử vụ việc đó giải thích. Các nội dung giải thích phải
được ghi trong các văn bản có liên quan, đặc biệt nội dung giải thích
chính thức phải được thể hiện trong bản án, quyết định giải quyết vụ
việc đó. Giá trị pháp lý của nội dung giải thích chính là giá trị pháp
lý của quyết định, bản án được tuyên.
Tuy
nhiên, việc trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án không đồng
thời đánh mất đi quyền giải thích pháp luật của cơ quan lập pháp – một
hoạt động giải thích chính thức mang tính quy phạm. Nhưng trong thời
gian tới, Quốc hội phải là chủ thể đảm nhận thẩm quyền này thay vì ủy
quyền cho UBTVQH. Quốc hội phải bằng việc ban hành nghị quyết để giải
thích các quy định của luật trên cơ sở đề nghị giải thích luật của các
chủ thể đã được quy định. Phạm vi giải thích pháp luật của Quốc hội còn
lại chủ yếu là liên quan đến các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà
nước và các quy định về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (các quy
phạm pháp luật thuộc luật công). Ví dụ, giải thích về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về đất đai giữa tòa án và ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo
quy định của khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai hoặc giải thích về thẩm quyền
ban hành VBQPPL của Tổng Kiểm toán Nhà nước theo quy định của Luật Kiểm
toán Nhà nước. Các quy phạm pháp luật cần giải thích này là rất quan
trọng và hiện nay cũng không thuộc thẩm quyền của tòa án; do đó, với vị
trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội mới là chủ thể có đủ tư cách và thẩm quyền để thực hiện giải thích.
Bên
cạnh những sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong
hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh như đã đề cập, thì điều
kiện đủ để triển khai sự thay đổi đó chính là cần bảo đảm các điều kiện
về nhân lực và vật chất |