Từ chối vì không
rõ thẩm quyền
Theo quy định tại Khoản
1 Điều 5 Nghị định số 79/CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký thì Phòng Tư pháp cấp huyện chỉ có thẩm quyền chứng
thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và chứng
thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài mà không có thẩm quyền
chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt và chứng
thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Thẩm quyền chứng thực đối
với bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt thuộc về UBND cấp xã.
Quy định nói trên đã gây
phiền hà cho người dân trước hết bởi việc phân biệt văn bản, giấy tờ bằng tiếng
Việt hay bằng tiếng nước ngoài khá phức tạp. Hơn nữa, trong trường hợp khi có
yêu cầu chứng thực đối với nhiều văn bản, giấy tờ (có loại bằng tiếng Việt, có
loại bằng tiếng nước ngoài…) cùng một lúc, người dân sẽ vừa phải đến Phòng Tư
pháp cấp huyện để yêu cầu chứng thực bản sao văn bản, giấy tờ bằng tiếng nước
ngoài, vừa phải đến UBND cấp xã để yêu cầu chứng thực bản sao văn bản, giấy tờ
bằng tiếng Việt.
Nghị định số 04/CP có
hiệu lực từ ngày 05/3/2012 sửa đổi, bổ sung Điều 5 Nghị định 79/CP đã khắc phục
tình trạng này. Phòng Tư pháp ngoài việc được quyền chứng thực bản sao từ bản
chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ;
chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài
sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký
trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ
thì còn được chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng
Việt và chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt (việc này
trước đây thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã).
Như vậy, với quy định
này, người dân khi cần chứng thực văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài, song
ngữ thì chỉ cần đến Phòng Tư pháp mà không phải đến cả 2 nơi (Phòng Tư pháp và
UBND xã) như trước kia. Khi có yêu cầu chứng thực văn bản tiếng Việt, người dân
cũng được quyền lựa chọn giữa huyện và xã.
Tưởng việc phân định
thẩm quyền như vậy là rõ ràng, song thực tế lại không phải như vậy. Nhiều
trường hợp văn bản người dân yêu cầu hoàn toàn bằng tiếng Việt, chỉ xen một vài
từ nước ngoài cũng bị xã từ chối vì họ cho rằng chứng thực văn bản này thuộc
thẩm quyền của Phòng Tư pháp. Việc này dẫn đến cảnh người dân vẫn phải chạy
lòng vòng, trong khi đó hiện tượng cùng một loại giấy tờ, nơi này làm còn nơi
kia lại từ chối cũng khá phổ biến.
Thể hiện đầy đủ bằng hai
ngôn ngữ mới coi là văn bản song ngữ
Chính vì quy định chưa
rõ nên dẫn đến thực tế là nhiều Phòng Tư pháp đang bị quá tải trong việc chứng
thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản, nhất là văn bản song ngữ. Ngày
13/6/2014 vừa qua, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực Bộ Tư pháp đã có công văn
gửi Sở Tư pháp các địa phương. Văn bản này nêu rõ, theo quy định tại điểm a
khoản 1 Nghị định 04/CP thì Phòng Tư pháp có thẩm quyền chứng thực bản sao từ
bản chính các giấy tờ, văn bản song ngữ.
Tuy nhiên, do Nghị định
số 04 không quy định như thế nào được hiểu là giấy tờ, văn bản song ngữ dẫn đến
cách hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các địa phương. Năm 2012, Bộ Tư pháp
đã có hướng dẫn về vấn đề này, theo đó tạm thời hướng dẫn “giấy tờ, văn bản
song ngữ” là giấy tờ, văn bản được thể hiện đầy đủ bằng hai ngôn ngữ, trong đó
có một ngôn ngữ là tiếng Việt.
Qua kiểm tra công tác
chứng thực ở một số địa phương cho thấy hầu hết các văn bằng chứng chỉ chỉ do
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam cấp có xen thêm tiếng nước ngoài
cũng được địa phương cho là giấy tờ, văn bản song ngữ. Vì vậy, người dân khi
đến UBND cấp xã yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản
này đều bị từ chối nên phải đến Phòng Tư pháp, gây ra tình trạng quá tải.
Để giảm tải công việc
cho Phòng Tư pháp và tạo thuận lợi cho dân, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
đề nghị giám đốc các Sở Tư pháp có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo đối với Phòng Tư
pháp, UBND các xã theo hướng: những văn bằng chứng chỉ chỉ do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền của Việt Nam cấp có xen thêm tiếng nước ngoài mà không thể hiện
đầy đủ bằng hai ngôn ngữ thì không được coi là giấy tờ, văn bản song ngữ, khi
có yêu cầu chứng thực bản sao, người dân có quyền lựa chọn chứng thực ở Phòng
Tư pháp hoặc UBND cấp xã.
Còn theo tinh thần Dự
thảo Nghị định cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch dự kiến trình Chính phủ tháng
9/2014 tới đây thì “giấy tờ, văn bản song ngữ” là giấy tờ, văn bản do cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài cấp hoặc chứng nhận, trong đó thể hiện đầy đủ bằng hai ngôn ngữ, một ngôn
ngữ là tiếng Việt, một ngôn ngữ là tiếng nước ngoài; có đóng dấu của hai cơ
quan đã cấp loại giấy tờ đó.
Như vậy, trong khi chờ
Nghị định mới được ban hành thì các địa phương vẫn thực hiện theo hướng dẫn của
Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, để tránh việc “làm khó” cho dân, cần tăng cường công tác
kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan tư pháp, đồng thời tổ chức các đợt
tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cơ sở./.
|