Sự kiện người tù thế kỷ
Huỳnh Văn Nén bị kết án oan đến hai lần trong hai vụ án giết người, đã bị giam
oan hơn 17 năm tù được giải oan và các cơ quan tố tụng tổ chức xin lỗi làm dư
luận bàng hoàng phẫn nộ.
Hậu quả của oan án này
đối với gia đình ông Nén kinh khiếp. Cơ quan điều tra đã bức cung nhục hình,
buộc ông Nén phải khai thêm chín người thân khác trong gia đình cùng lâm vào
vòng tù tội. Con ông Nén bơ vơ không người nuôi dạy, phải rơi vào vòng lao lý.
Ba thế hệ của gia đình bị cuốn vào bản án oan.
Vấn đề đặt ra là từ năm
2000, đã có đơn kêu oan cho ông Nén, đã có người tố cáo đích danh hung thủ giết
người, thế nhưng các cơ quan tố tụng vẫn làm ngơ. Oan án kéo dài thêm đến 15
năm nữa.
Không chỉ có ông Nén,
hiện còn một số bị án tử hình mà chứng cứ buộc tội mơ hồ, quy định tố tụng bị
vi phạm, lời kêu oan thống thiết nhưng các cơ quan tố tụng vẫn cho rằng “chưa
đủ cơ sở để kháng nghị giám đốc thẩm”.
Làm thế nào để hạn chế
những oan án như Huỳnh Văn Nén, hạn chế những bản án bất minh?
Chung tình trạng chỉ vin
vào lời nhận tội
Không chỉ riêng vụ án
Huỳnh Văn Nén, hiện còn một số vụ án nghiêm trọng hơn, bị án bị tuyên tử hình
nhưng tiếng kêu oan vẫn vang lên không dứt từ các Luật sư, thậm chí cả những
đại biểu Quốc hội.
Có thể dẫn ra đây hai vụ
án tiêu biểu là vụ án Hồ Duy Hải bị tuyên án tử hình về tội giết hai nữ nhân
viên Bưu điện Cầu Voi (Long An), vụ Lê Văn Mạnh bị tuyên tử hình về tội giết
người hiếp dâm một bé gái ở Thanh Hóa.
Hai vụ án xảy ra ở những
vùng miền khác nhau nhưng có chung đặc điểm với oan án Huỳnh Văn Nén là cơ quan
điều tra chỉ căn cứ vào lời khai nhận tội trong giai đoạn điều tra mà chứng cứ
buộc tội không chặt chẽ.
Họ cũng không hề xem xét
các lời kêu oan tại tòa của bị cáo, luật sư, các chứng cứ ngoại phạm cũng như
gỡ tội khác.
Đặc biệt là những vi
phạm nghiêm trọng các qui định tố tụng của cơ quan tố tụng cấp dưới trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử lại được cơ quan cấp trên bỏ qua bằng một lập
luận phi pháp luật là “có vi phạm nhưng không ảnh hưởng đến bản chất vụ án”.
Vụ án Hồ Duy Hải gây
chấn động dư luận khi được Chủ Tịch nước cho hoãn thi hành án tử hình vào những
giờ cuối cùng. Kết quả giám sát của Quốc hội cho thấy tất cả các hung khí cho
rằng Hải dùng giết người đều là đồ giả từ con dao, cái thớt, cái ghế.
Bà Lê Thị Nga, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội trực tiếp giám sát vụ án đã phát biểu: “Điều
273 Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định đối với một vụ án, chỉ cần một trong bốn
căn cứ: có nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra;
việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa không đầy đủ, không làm rõ được những mâu
thuẫn trong vụ án; kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án; có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ Luật
Hình sự là đủ điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm”.
Thế nhưng Chánh án
TANDTC vẫn trả lời là: “Có sai nhưng chưa đủ cơ sở để kháng nghị giám đốc thẩm”
Tương tự Hồ Duy Hải, Lê
Văn Mạnh cũng là bị án tử hình đã có quyết định thành lập Hội đồng Thi hành án
nhưng được hoãn thi hành vào cuối tháng 10 vừa qua.
Trong thư đề nghị hoãn
thi hành án, một số luật sư viết: "Chúng tôi nhận thấy trong các bản án sơ
thẩm cũng như phúc thẩm không có chứng cứ nào khác ngoài lời nhận tội của bị
cáo, mà chính bị cáo phủ nhận toàn bộ tại phiên tòa. Điều này đã vi phạm quỵ
định tại khoản 2 điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: "Không được
dùng lời nhận tội của bị can, bị án làm chứng cứ duy nhất để kết tội"”.
Hiện số phận các bị án
trên vẫn còn treo lơ lửng. Một số vụ án khác đang kêu oan cũng trong tình trạng
tương tự. Vì sao như vậy?
Theo luật, quyền và
trách nhiệm xem xét lại các bản án này lại thuộc về TANDTC và VKSNDTC, nhưng
như đã nêu ở phần trên, “căn bệnh” chỉ dựa vào lời khai để buộc tội không loại
trừ ai trong ngành tố tụng; nên cả Tòa và Viện không ai chịu làm cái chuyện :tự
ghè đá vào chân mình”.
Luật sư Trần Hồng Phong,
người kêu oan cho Hồ Duy Hải đã viết rằng: “Việc giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải
bây giờ cái khó, thậm chí rất khó - là đối với TANDTC và VKSNDTC chứ không phải
luật sư. Vì họ phải vượt qua chính mình. Vì nếu kháng nghị giám đốc thẩm tức là
họ thừa nhận mình đã sai, phải bác bỏ chính những quyết định trước đây của mình
(các bản án, quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm). Và điều này chắc chắn
sẽ ảnh hưởng đến uy tín và “ghế”. Nên khó”.
Oan án Huỳnh Văn Nén
không phải là sai sót của riêng Tòa án tỉnh Bình Thuận mà còn có trách nhiệm
của TANDTC đã từng phúc thẩm hai vụ án này. Nếu ngành Tòa án thật sự nghiêm túc
rút kinh nghiệm thì xin hãy “hy sinh” thành tích, ra kháng nghị giám đốc thẩm
những bản án đang bị kêu oan, cứu sống những bị án oan ức, hoặc xử tử họ với
bản án thật thuyết phục để họ chết trong trạng thái “tâm phục khẩu phục”. |